Tác giả: Nhóm Tư Duy Lịch Sử
KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI KỸ NỮ
Phụ nữ Việt Nam nói riêng cũng như trên thế giới nói chung thì từ xưa đến nay vẫn luôn chịu đựng sự bất công trong xã hội. Đối với người phụ nữ thì trong lịch sử phát triển của loài người, giai đoạn “ xã hội nô lệ và phong kiến” chính là giai đoạn mà số phận của họ bị chà đạp và khinh rẽ nhất. Bài viết này xin tiếp cận một khía cạnh trong đời sống của phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, thời mà những cô gái vừa xinh đẹp vừa tài năng nhưng cũng chịu những đau khổ tủi nhục do chính tài sắc của mình mang lại. Vậy họ, những người con gái đó là ai?
Ảnh minh họa.
I.Kỹ Nữ và mại dâm
Khi nhắc đến Kỹ Nữ nhiều người nghĩ ngay đó là những cô gái làm nghề “mại dâm” ngày xưa. Vậy Kỹ nữ có thật là gái mại dâm hay không? Có người bảo rằng Kỹ Nữ chính là gái mại dâm, những cũng có người cho rằng không hẳn là vậy. Vậy trước khi tìm hiểu Kỹ Nữ là như thế nào?, xin mời các bạn tìm hiểu qua một chút về lịch sử của cái nghề thiên cổ, có thể xem là “trường tồn với thời gian” của thế giới, đó chính là nghề “mại dâm”:
Từ xa xưa con người muốn duy trì nòi giống thì phải có tình dục. Như vậy có thể nói tình dục chính là một nhu cầu của xã hội loài người. Khi mà nhu cầu đó của con người không thể đáp ứng được thường xuyên từ những cuộc hôn nhân (vợ chồng), thì sẽ dẫn đến “tình dục không hôn nhân” hay nói cách khác là “tình dục ngoài luồng”. Như vậy là đã có “cầu”, mà đã có cầu thì sẽ dấn đến có “cung”. Từ đó nghề mại dâm ra đời, nhìn từ phương diện kinh tế mại dâm là một loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Lịch sử Việt Nam được cho là có 4000 năm thì lịch sử của nghề mại dâm cũng chừng đấy năm. 4000 năm trước mại dâm đã tồn tại ở Lưỡng Hà, bộ luật Hammurabi ra đời khoảng năm 1760 TCN cũng đã nhắc đến mại dâm. Tương tự các nền văn minh cổ của thế giới như La Mã, Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Hoa đều có mại dâm. Đến đây các bạn đã có thể hiểu được nghề mại dâm nó cổ xưa như thế nào rồi, mại dâm hiểu nôm na tức là một nghề: dùng tình dục để đổi lấy một cái lợi gì đó.
1.Kỹ Nữ là gì?
Kỹ Nữ không hoàn toàn liên quan đến mại dâm, mà chỉ một phần thôi. Không phải kỹ nữ nào cũng bán thân, cũng lấy tình dục làm cái mồi câu cơm cả. Trong tác phẩm “Lịch Sử Kỹ Nữ” của hai tác giả người Trung Quốc là Từ Quân và Dương Hải có viết :
“Nhìn từ từ nguyên, kỹ nữ hoàn toàn không phải là phụ nữ lấy việc bán dâm làm nghề nghiệp, mà vốn làm việc ca múa. Như Thuyết văn giải tự nói "Kỹ là vật dùng nhỏ của phụ nữ”. Đoàn Ngọc Tài chú "Nay tục thường dùng chữ nữ kỹ", Trương Tập thời Ngụy giải thích Kỹ là "gái đẹp". Thiết vận của Lục Pháp Ngôn thời Tùy nói "Kỹ là nữ nhạc". Các sách Chính tự thông, Khang Hy tự điển về sau cũng giải thích Kỹ là "nữ nhạc"
Nữ nhạc thời cổ thường dùng chỉ phụ nữ dung mạo xinh đẹp, giỏi ca múa âm nhạc. Như Quản Tử, Khinh Trọng Giáp nói "Vua Kiệt ngày xưa có ba vạn nữ nhạc, sáng ra tấu nhạc vang tới đường cái". Diêm thiết luận, Lực canh nói "Thời vua Kiệt nữ nhạc đầy cung, áo xiêm thêu thùa lộng lẫy. Cho nên Y Doãn qua đời lâu năm, thì sau cùng nữ nhạc làm mất nước”
Bây giờ chúng xét về nghĩa của từ Kỹ Nữ để hiểu hơn về nguồn gốc của nghề làm Kỹ Nữ trong lịch sử:
Kỹ Nữ: Kỹ + Nữ (女)
Nữ (女): Chỉ người phụ nữ
-Kỹ (妓): (女) nữ +支(chi)
Chữ Kỹ (妓) ở đây mang hàm ý là: +người con gái đẹp
+người làm nghề ca hát
-Kỹ( 技): 手( thủ) + 支 (chi)
Chữ Kỹ( 技) ở đây mang hàm ý là: +có nghề, có tài năng
+thợ giỏi
-Kỹ(伎): 人(nhân) + 支 (chi)
Chữ Kỹ(伎) ở đây mang hàm ý là: +có nghề, có tài năng
+nữ nhạc công, con hát
Như vậy qua phân tích từ ngữ chúng ta có thể thấy rằng từ xưa “Kỹ Nữ” ban đầu không phải là những phụ nữ làm nghề bán thân (bán dâm) mà là chỉ những người con gái có tài hát và ca múa mà thôi.
2.Lịch Sử phát triển của nghề Kỹ Nữ
Lịch sử phát triển của Kỹ Nữ từ việc bán nghề sang bán thân cũng cần trải qua các giai đoạn khác nhau. Ở đây mình xin khảo sát Trung Quốc và sau đó là suy dẫn cộng thêm các tài liệu lịch sử để nói lên các giai đoạn ở Việt Nam.
Trung Quốc:
1. Giai đoạn Kỹ Nữ bán nghề là chủ yếu: Hình thành và phát triển dưới thời Hạ, Thương, Chu và cho đến thời Nam Bắc triều
2. Giai đoạn coi trọng cả nhan sắc và tài năng: Nôm na tức là có cả kỹ nữ bán nghề và kỹ nữ bán dâm và cũng có loại kỹ nữ bán cả 2, giai đoạn này thịnh hành vào thời Đường – Tống
3. Giai đoạn coi trọng sắc: Bán dâm là chủ yếu thì thịnh hành vào thời Minh – Thanh
Dựa vào các tài liệu lịch sử cũng như sự ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa mình tạm thời chia giai đoạn phát triển của nghề Kỹ Nữ ở Việt Nam như sau
1. Giai đoạn hình thành Kỹ Nữ với hình thức bán nghề(nhạc công, con hát..): Hình thành vào thời Đinh, Tiền Lê
2. Giai đoạn Kỹ Nữ bán nghề(chủ yếu): Phát triển vào triều Lý và Trần
3. Giai đoạn hình thành Kỹ Nữ có bán nghề và bán dâm(trọng cả sắc lẫn tài): Thời mạt trần, Hồ, thuộc Minh và đầu Lê Sơ
4. Giai đoạn Kỹ Nữ bán dâm thịnh hành (coi trọng sắc): Phát triển vào thời Lê Trung Hưng cho đến thời Nguyễn.
Trong tác phẩm “Sơn Cư Tạp Thuật” viết vào thế kỷ XVIII miêu tả xã hội thời đó có viết:
"Nước ta trước đây đĩ điếm phần nhiều tụ tập ở kinh thành và quân doanh, chỗ nào cũng có, riêng phố Hàng Chĩnh, Hàng Cau đông nhất. Đĩ phần nhiều bị giang mai, tục gọi là mụn Xiêm La. Tương truyền khi chinh phạt Xiêm La, tướng sĩ mắc chứng này, về lây cho nhau, đứa phóng đãng trăng hoa hay mắc phải, có khi chết người. Sau năm Mậu Thân (1788), tướng sĩ trấn Bắc Thành phần đông lây bệnh này, nguy cấp khôn cứu, cấm cũng không dứt được. Bèn lùng bắt đĩ khắp các phố phường, cạo đầu, phạt trượng rồi đuổi đi. Đó cũng là một cách làm hay”
Câu chuyện mua dâm giá ngàn vàng của sư chùa núi Yên Tử(trích trong Sơn Cư Tạp Thuật):
“Đêm đó vào quãng canh ba, trăng vằng vặc chiếu, gió thông lùa bức rèm lay động. Lúc ấy Huyền Quang chưa ngủ. Nhà sư dạo gót ngoài thềm chợt thấy quần lụa (của Thị Bích) trễ xuống gần nửa, để lộ thịt da tuyết trắng. Chẳng nỡ lòng nhìn, Huyền Quang bỏ đi.
Trăng tà lặn dần xuống thấp, bóng trúc che khuất cửa. Huyền Quang quay về tăng phòng. Nhưng khi tới cửa phòng thì nhà sư nhìn thấy quần hồng của Thị Bích đã tụt hẳn xuống. Thế là lòng thiền xao động, không thể kìm giữ được nữa... Song Thị Bích không nghe cương quyết cự lại. Lửa dục trong lòng nhà sư bùng lên dữ dội, chàng bèn lấy cả số vàng được nhà vua ban tặng đưa ra cho Thị Bích rồi thông dâm cùng nàng.”
Từ đó chúng ta có thể thấy được rằng, nghề Kỹ Nữ ở nước ta thời phong kiến phát triển và thay đổi theo thời gian. Từ việc các kỹ nữ chỉ bán nghề như ca hát, đào nương, nhạc công thời gian đầu cho đến việc các kỹ nữ bán dâm mua khác. Từ việc thay đổi trong cách thức hành nghề đó cũng đã dẫn đến khái niệm "Kỹ Nữ" cũng đã bị thay đổi theo không còn giữ được nghĩa gốc như ban đầu.
CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KỸ NỮ(tiếp)
III. Kỹ Nữ Việt thời Lý Trần
1. Kỹ Nữ Việt thời Lý
“Châu giang một giải sông dài,
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật tháp thiên di.
Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt,
Thiếp sinh ly.
Sinh ký đau lòng kẻ tử quy!
Sóng bạc ngàn trùng
Âm dương cách trở
Chiên hồng một tấm,
Phu thê xướng tùy.
Ôi mây! Ôi nước! Ôi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lụy rơi.
Nước sông trong đục,
Lệ thiếp đầy vơi
Bể bể, dâu dâu, khóc nỗi đời!
Trời ơi! Nước hỡi! Mây hời!
Nước chảy, mây bay, trời ở lại,
Để thiếp theo chồng mấy dặm khơi!”
Trên đây là bài thờ “khóc nàng Mỵ Ê” của nhà thơ Tản Đà. Năm 1044 Lý Thái Tông đem quân đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm thua trận, Lý Thái Tông tiến vào kinh đô Phật Thệ (Kandapurpura) bắt được Mỵ Ê và các cung nữ giỏi múa hát (Cung Kỹ - Ca Kỹ) đem về. Bài thơ nói về nỗi lòng của nàng Mỵ Ê vợ vua Chiêm Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II) trước khi nàng gieo mình xuống dòng Châu Giang để giữ trọn khí tiết. ĐVSKTT chép:
“Mùa thu, tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng lợi”
“Tháng 9, ngày mồng 1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ỏ thuyền ngự. Khi đến hành điện Ly Nhân, sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẩn uất không xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện Phu Nhân”
Nhà Lý đã nối tiếp các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê tiếp tục đưa đất nước phát triển đi lên. Với hơn 200 năm tuổi, nhà Lý cũng chính là triều đại mở đầu cho kỷ nguyên “Đại Việt” huy hoàng trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Năm 1010 nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long) đã khẳng định được một vị thế mới của quốc gia, của dân tộc. Đất nước dưới thời Lý ngày càng phát triển, đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội. Theo đà phát triển của đất nước thì lực lượng Kỹ Nữ thời Lý cũng đã có những biến chuyển sâu sắc.
Năm 1026, dưới thời vua Lý Thái Tổ có một người Ca Kỹ (con hát) là Đào Thị có tài ca hát, được vua ban thưởng. Tiếng hát của người Ca Kỹ đó nổi tiếng khắp vùng được nhiều người mến mộ, những người làm nghề ca hát như vậy đều được gọi là Đào Nương. VSTT chép:
“Vua định số quân ra từng giáp, mỗi giáp là 15 người, dùng một người làm quản giáo, rồi lại đổi gọi là Hỏa đầu, làm Chánh thủ, duy con nhà chèo hát thì gọi là quản giáp. Bấy giờ có con hát là Đào Thị, có tiếng tốt và giỏi tài nghệ, từng được Vua thưởng; người ta mộ dang tiếng thị ấy, phàm con hát đều gọi là Đào nương, bắt đầu từ đây”
Như vậy có thể nói ngay từ thời Lý Thái Tổ thì nghề ca hát trong dân gian đã rất phát triển. Các quy chế như tên gọi, cách xưng hô, phân cấp để phân biệt trong xã hội đối với những người làm nghề ca hát thì cũng đã bắt đầu xuất hiện. Như vậy xét theo tiêu chí làm việc của Kỹ Nữ, thì thời đại nhà Lý vẫn là thời đại của những Ca Kỹ
So với các triều đại trước như Ngô, Định, Tiền Lê thì quy chế, lễ nghi cũng như hệ thống tổ chức trong triều đình thời Lý cũng đã hoàn thiện hơn qua ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Nói đến tổ chức cung đình nhà Lý thì cũng phải nói đến hậu cung với hệ thống cung nữ và phi tần của nhà vua. Dưới thời Lý lực lượng Cung Kỹ đã hoàn thiện, có nhiệm vụ chuyên trách là phục vụ ca múa trong các dịp lễ quan trọng của triều đình hay các hoạt động vui chơi của nhà vua. ĐVSKTT chép:
“tháng 6(năm 1028, Lý Thái Tông), lấy ngày sinh của vua làm tiết Thiên Thánh. Lấy tre làm núi Vạn Tuế Nam Sơn ở Long trì: kiểu núi làm thành năm ngọn, trên đỉnh ngọn ở giữa dựng núi Trường Thọ, bên đỉnh bốn ngọn xung quanh đều đặt núi Bạch Hạc, trên núi làm hình dạng các giống chim bay thú chạy, lưng chừng núi có rồng thần cuốn quanh, cắm xen các thứ cờ, treo lẫn vàng ngọc, sai con hát1 thổi sáo thổi kèn trong hang núi, dâng ca tấu múa làm vui, cho các quan ăn yến. Quy chế núi năm ngọn bắt đầu từ đấy”
“Mùa hạ, tháng 5(năm 1044, Lý Thái Tông), đặt phẩm cấp các cung nữ, hoàng hậu và phi tần 13 người, ngự nữ 18 người,nhạc kỹ hơn 100 người.”
ĐVSL chép:
“Mùa đông, tháng 10 (năm 1202, Lý Cao Tông) vua đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đấy đêm nào cũng sai nhạc công khảy đàn Bà Lỗ, xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc Chiêm Thành, âm thanh ai oán thảm thiết buồn bả oán hờn. Những kẻ tả hữu nghe đến đều nghẹn ngào rơi lệ”
"Năm đó tháng 10(1206, Lý Cao Tông) ở trong cõi đã loạn lạc mà nhà vua lại thích đi chơi, đường xá mắc nghẽn không còn chỗ nào có thể qua được. Nhà vua bèn ở lại nơi hồ Ứng Minh, sai lập riêng hai cái hành cung là Ứng Phong và Hải Thanh. Rồi ngày ngày cùng bọn cung nữ và những cận thần vào xem chơi, mà lấy làm vui thú. Lại dùng thuyền to làm thuyền ngự, thuyền nhỏ thì chia làm hai đội, sai bọn cung nữ và phường trò chèo đi, tả hữu nghiêm trang, cứ y như là vua ngự đi đâu xa vậy. Lại lấy xấp lụa có bao sáp ong ở ngoài cùng với các loài hải vật đem thả chìm vào trong hồ, xong sai người lặn vào trong nước mà lấy rồi cho là vật của long cung dâng hiến”
Trang phục nữ thời Lý
Như vậy dưới thời Lý lực lượng cung nữ trong hậu cung nói chung và Cung Kỹ nói riêng đã khá phát triển và hoàn thiện hơn so với thời Tiền Lê. Họ chính là những Kỹ Nữ chuyên phục vụ hoạt động ca múa, nghệ thuật trong cung đình. Nguồn gốc của những Cung Kỹ này ngoài việc tuyển chọn những cô gái có tài năng ca múa trong nhân gian như Đào Nương, Ca Nhi vvv thì ngoài ra họ cũng có thể là nữ tù binh bị nhà Lý bắt đem về trong các cuộc chiến hoặc là những nữ nô lệ bị buôn bán . Cụ thể như các cuộc chinh phạt Chiêm Thành dưới thời Lý Thái Tông(1044), Lý Thánh Tông (1069) hay cuộc chiến với Tống (1075) thì rất nhiều tù binh trong đó có nữ giới đã bị nhà Lý bắt đem về.
Kỹ Nữ dưới thời Lý xét về “tiêu chí làm việc” thì phổ biến vẫn là lực lượng Ca Kỹ, Ca Nhi, Nhạc Kỹ như: Ả Đào, Đào Nương, Cô đẩu vvv chỉ chuyên phục vụ các hoạt động nghệ thuật. Nhưng do nguồn gốc các Kỹ Nữ thời Lý có một số là từ các nữ tù binh, nô lệ nên có thể xuất hiện hình thức Dục Kỹ sơ khai, do những cô gái này có thể bị bắt phục vụ nhu cầu tình dục của binh lính. Xét về tiêu chí “đặc thù công việc” thì lực lượng Cung Kỹ và Gia Kỹ hết sức phát triển. Các vua cuối thời Lý như Cao Tông, Huệ Tông lại là những người thích ăn chơi xa xỉ, ca múa đam mê nữ sắc càng chức tỏ lực lượng Cung Kỹ thời Lý đã phát triển ở mức độ cao, có quy củ. Ngoài ra do sự phát triển của kinh tế đặc biệt những đô thành như Thăng Long hay thương cảng Vân Đồn thì lực lượng Thị Kỹ cũng có nhiều cơ hội để phát triển. Khi lực lượng Thị Kỹ phát triển thì cũng có thể xuất hiện lực lượng Dục Kỹ ở các thành thị, nhất là vào thời nhà Lý thì việc buôn bán qua lại với người Tống đã hết sức phát triển.
2.Kỹ Nữ Việt thời Trần
“Thiếp xưa con gái nhà nghèo,
Lớn lên ca xướng học theo bạn bầy.
Phong lưu quen thú Hà Tây
Chưa tường án mạnh ngang mày như ai.
Tiệc hoa một bữa khuyên mời,
Mối manh duyên khéo an bài tự đâu.
Tràng Khanh chưa gảy Phượng cầu,
Mến tài Đỗ Mục bởi câu hoa đường.
Duyên kim phận cải xe vương,
Những mừng giây sắn được nương bóng tùng.
Thiên Thai một cuộc kỳ phùng,
Thú vui lửa đượm hương nồng chưa bao.
Chương Đài cành liễu nghiêng chao,
Biệt ly mang nặng biết bao oán sầu.
Duyên may hóa rủi ngờ đâu,
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong.
Bẽ bàng đổi khác tư dong,
Tóc xanh biếng chải, môi hồng biếng tô.
Thương xuân vách phấn đèn lu,
Trông gương ngấn lệ mơ hồ, ngại soi.
Tiện hồng thư mới tới nơi,
Chia loan càng xót xa đời biệt ly.
Liễu Hàn tạm bẻ vin đi,
Nhưng châu Hợp Phố phải về quận xưa.
Nỗi lòng trăm mối vò tơ,
Thư dài đến mấy vẫn chưa hết lời”
Trên đây là bài thơ đáp lễ ân tình, đồng thời cũng là nỗi lòng của nàng Ca Kỹ Thúy Tiêu dành cho chàng thư sinh Dư Nhuận Chi. Thúy Tiêu vốn là Gia Kỹ của quan Trần soái Lạng Giang là Nguyễn Trung Ngạn, sống vào cuối đời Thiệu Phong(*) nhà Trần. Trong một lần Nhuận Chi đến yết kiến, thì quan Trần soái Lạng Giang là Nguyễn Trung Ngạn đã cho làm tiệc thiết đãi, đồng thời cho đám Ca kỹ ra múa hát làm vui, trong số đó có nàng Thúy Tiêu xinh đẹp(dựa theo tác phẩm Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ)
Đối các triều đại phong kiến Việt Nam thì người Chiêm vẫn luôn bị xem là đám “man di” không cùng đẳng cấp với mình. Triều Trần cũng không phải là ngoại lệ, năm 1252 để tỏ rõ uy danh của mình thì Trần Thái Tông đã thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt về vợ vua Chiêm và nhiều cung nữ, nô tỳ. Số phận những phụ nữ người Chiêm lần này chắc cũng sẽ như thời Tiền Lê, Lý đều bị đem vào cung làm thê thiếp, Cung Kỹ ca múa các điệu nhạc Chiêm Thành hoặc được nhà vua ban thưởng cho các quan lại, tướng lĩnh có công.
Thời đại nhà Trần đội ngũ Cung Kỹ trong cung đã phát triển hết sức quy mô, cũng như được tiêu chuẩn hóa nhằm phục vụ ca múa trong các dịp lễ quan trọng của triều đình cũng như thú vui của bậc đế vương. Các điệu ca múa trong cung đình nhà Trần đã hết sức đa dạng có tới hàng trăm điệu, trong đó có những điệu mô phỏng và hóa trang như: Nam thiên nhạc, Ngọc lâu xuân, Đạp thanh du, Mộng du tiên, Canh lậu trường...
An Nam Chí Lược – Lê Tắc chép:
“Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan Củng, các bầy tôi đều làm lễ, lễ rồi, xem các con hát múa trăm lối”. Phần này cũng còn cho biết vào ngày Tết Nguyên đán, các quan trong nội cung tập trung trước điện Thiên An để chơi các bài ca nhạc trước đại đình. Rồi ngày 3 tết, vua ngồi trên gác Đại Hưng xem tôn tử và các quan nội cung đá cầu…Tháng hai, sai làm một cái đài, gọi là Xuân Đài, các con hát hóa trang làm mười hai vị thần, múa hát trên đài”
Trang phục nữ thời Trần
ĐVSKTT chép:
“Nhâm Dần, năm thứ 5 (1362), mùa Xuân, tháng Giêng, lệnh cho cho các nhà vương hầu cùng công chúa dâng các trò tạp hý vua xét định trò nào hay thì ban thưởng cho... Trong tuồng có các vai quan nhân, chu tử, đán nương, câu nô, gồm 12 người, mặc áo gấm, áo thêu, đánh trống, thổi sáo, gẩy đàn, vỗ tay, vỗ phím đàn, thay đổi nhau ra vào làm trò, khiến người xem xúc động, muốn cho buồn được buồn, muốn cho vui được vui. Nước ta có tuồng truyện bắt đầu từ đấy”
Sứ thần nhà Nguyên là Trần Cương Trung viết trong An Nam Tức Sự:
“Từng dự yến ở điện Tập Hiền bên nước đó, thấy một bọn con hát trai (nam ưu) và gái (nữ xướng) mỗi bên mười người, đều ngồi dưới đất. Có các thứ đàn như đàn tỳ bà, đàn tranh và đàn bầu. Tiếng hát tiếng đàn hòa lẫn vào nhau. Khi hát, thì trước hết ê a (lấy giọng) rồi sau mới có lời. Phía trước điện (Tập Hiền) có biểu diễn các trò đá múa, leo sào (dịch lộng thượng can), múa rối trên đầu gậy (trượng đầu khối lỗi). Lại có người mặc quần gấm nhưng mình lại để trần nhảy nhót hò reo. Đàn bà đi chân không, xòe mười ngón tay ra như những chạc cây để múa, thật xấu xa trăm điều”. … Hơn mười người con trai mình đều cởi trần, cánh tay liền nhau, chân giậm xuống đất, vừa xoay vòng xung quanh vừa hát mãi; mỗi hàng khi có một người giơ tay thì mười mấy người cùng giơ tay, khi bỏ tay xuống cũng vậy. Trong các bài hát của họ, có những khúc như Trang Chu mộng điệp (Trang Chu nằm mộng hóa ra bướm), Bạch Lạc Thiên mẫu biệt tử (Bạch Lạc Thiên mẹ ly biệt con), Vi Sinh ngọc tiêu (Ống tiêu ngọc của Vi Sinh), Đạp ca, Hạo ca ..., duy có khúc Thán thời thế (than thời thế) là ảo não nhất, song nghe tản mạn không thể hiểu được. Khi trên điện bày yến tiệc lớn cần có đại nhạc thì nhạc sẽ cử lên ở sau chái nhà phía dưới, cả nhạc cụ lẫn người đều không nom thấy đâu cả, mỗi lần rót rượu, thì (trên điện) hô lớn “Phường nhạc tấu khúc mỗ!”, ở chái nhà phía dưới liền có tiếng “dạ” và cử khúc nhạc đó. Nhạc thì có những khúc gọi là Giáng Hoàng long, gọi là Nhập Hoàng đô, gọi là Yến Dao trì, gọi là Nhất giang phong, âm điệu cũng gần giống nhạc cổ nhưng gấp rút hơn mà thôi”
Về nguồn gốc của lực lượng Cung Kỹ thời Trần thì có lẽ cũng không khác xa với thời Lý. Phần lớn Cung Kỹ được tuyển chọn từ dân gian, ngoài ra còn là các nữ tù binh và nữ nô lệ.
Truyền Kỳ Mạn Lục – truyện nàng Thúy Tiêu có viết:
“Ả danh kỹ ở Từ Sơn là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc”
Ngoài lực lượng Cung Kỹ đông đảo, quy mô thì lực lượng Gia Kỹ thời Trần cũng hết sức phát triển, thậm chí vượt xa thời Lý. Thời Trần là thời đại của thái ấp và điền trang, nhiều thân vương và quý tộc thời Trần được ban thái ấp và điền trang. Thái ấp và điền trang giống như một lãnh địa thu nhỏ, mà trong đó tầng lớp quý tộc có nhiều đặc quyền riêng, thậm chí là có thể mộ binh lính riêng. Có nhiều đặc quyền như vậy, thì tầng lớp quý tộc không khó khăn gì để có một đội ngũ Ca Kỹ riêng của mình, tùy úy sử dụng những khi cần. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một người am hiểu âm luật, thích xem ca múa, thậm chí ông còn là tác giả của nhiều tiết tấu âm nhạc cũng như các khúc điệu múa hát. Một người như Chiêu Văn Vương không thể không có cho mình một đội Ca Kỹ riêng trong phủ (Gia Kỹ) để thưởng thức khi cần được. Trong truyện Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ cũng có nhắc đến việc tầng lớp quý tộc thời trần có đội ngũ Ca Kỹ (tức là Gia Kỹ) riêng cho mình để sử dụng.
Truyền Kỳ Mạn Lục – chuyện Oan Nghiệt Của Đào Thị có chép:
“Dư Nhuận Chi người đất Kiến Hưng, tên là Tạo Tân, có tiếng hay thơ; nhất là về những bài hát, lại càng nức danh ở kinh kỳ, mỗi bài làm ra, phường hát bội đem tiền tặng biếu rất hậu để xin lấy. Nhân thế Dư càng nổi thanh giá ở chốn tao đàn. Cuối đời Thiệu Phong nhà Trần, Dư nhân có việc, vào yết kiến quan Trần soái Lạng Giang là Nguyễn Trung Ngạn. Ông Nguyễn thấy Dư đến, lật đật ra tiếp, đặt tiệc ở Phiếm Bích đường thết đãi, gọi mười mấy người con hát ra hát múa ở trước tiệc. Trong bọn con hát có ả Thúy Tiêu là người rất xinh đẹp”
Còn về lực lượng Thị Kỹ thời Trần thì không có tài liệu ghi chép lại, nhưng dựa vào việc phát triển của lực lượng Ca Kỹ, cũng như việc tuyển chọn Cung Kỹ từ dân gian thì có thể khẳng định được phần nào sự tồn tại của lực lượng Thị Kỹ ở những chốn đô hội như Thăng Long hay Vân Đồn.
Xét về “tiêu chí làm việc” thì Kỹ Nữ dưới thời Trần cũng như thời Lý thì chiếm đa số vẫn là lực lượng Ca Kỹ. Ca Kỹ là là những người có phẩm hạnh cao nhất trong giới Kỹ Nữ, thời Lý, Trần những người Ca Kỹ vẫn nhận được sự tôn trọng nhất định từ mọi người, không quá bị khinh rẻ như thời sau. Thời Lý có Đào Thị là con hát(Ca Kỹ), có tiếng tốt được nhiều người mến mộ thậm chí còn được Lý Thái Tổ ban thưởng. Thời Trần có mẹ Dương Nhật Lễ là một Ca Kỹ kép hát, nhưng lại được vua Dụ Tông yêu mến đưa vào cung, thậm chí sau khi Dụ Tông mất thì Nhật Lễ còn được Hoàng Thái Hậu đưa lên ngôi vua, mà không dị nghị gì về thân thế là con một Ca Kỹ kép hát cả.
(CÒN TIẾP)