Sự can thiệp của Trung hoa tại Việt Nam và kết cục của nó (1786-1802): một sự tái khảo sát trật tự thế giới vùng Đông Á trong lịch sử
Tác giả: Takashi Inoguchi (ĐH Tokyo)
Dịch giả: Ngô Bắc
I. Dẫn Nhập
Kể từ khi Fairbank và Teng cố gắng lần đầu tiên
để biểu trưng trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử như một “hệ thống triều
cống”, nhiều sử gia đã chấp nhận, tu chỉnh, phê bình hay quên lãng sự ý niệm
hóa của họ về trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử. 1 Một
trong những cuộc điều tra gần đây theo chiếu hướng này là quyển The
Chinese World Order: Traditional China’s Foreign Relations, biên tập bởi
Fairbank. Bất kể các cuộc điều tra của các sử gia siêng năng, kết quả xem
ra không mấy khác biệt với câu chuyện về các người mù sờ con voi. Nồ lực
tập thể này phô bày tính chất địa phương hẹp hòi phát sinh từ một tiêu điểm
không-thời gian đặc biệt của mỗi cuộc nghiên cứu và sự khiếm khuyết việc tổng
hợp các cuộc nghiên cứu này. Chính từ đó, tình trạng này đã dẫn dắt một
nhà điểm sách của Fairbank đi đến kết luận:
“Trong tác phẩm chứa đầy sự kiện này, lý thuyết
minh bạch vì thế mang ít các sự quan hệ [sic] của các dữ liệu phong phú trong
các quan hệ ngoại giao, vốn xứng đáng cho một sự tái phân tích về phương
diện đối chiếu và hệ thống”. 2
Tuy nhiên, quả thực mỉa mai, sự thiếu vắng nỗ
lực tổng hợp trong hai phương diện đối chiếu và hệ thống dường như trợ lực cho
việc duy trì một tình trạng trong đó công thức nguyên thủy của Fairbank và Teng
đã không được tái duyệt một cách cơ bản.
Bài viết này sẽ gắng sức để khảo sát trật tự thế
giới Đông Á trong lịch sử, chủ yếu chiếu theo lịch sử của các quan hệ
Trung-Việt như một bước đầu tiên để phác họa một bức tranh thực tế hơn về trật
tự thế giới Đông Á trong lịch sử khác với mô hình của Fairbank. Chúng ta
sẽ khảo sát trước tiên mô hình của Fairbank về mặt các đề xuất lý thuyết và các
giả thiết đã có trước về cơ cấu-lịch sử được gắn liền trong các khái niệm của
ông. Điều này cốt ý muốn phô bày rằng các khái niệm của nhiều sử gia khác
nhau về trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử dựa chính yếu trên các kinh
nghiệm lịch sử đặc thù với các cơ cấu 4 xã hội và “quốc
tế” 3 đặc thù. Xuyên qua một sự lược duyệt đối chiếu
các khái niệm của các sử gia khác nhau về (một phần của) trật tự thế giới Đông
Á trong lịch sử, chúng tôi sẽ chỉ cho thấy rằng mô hình của Faitbank thì không
thích đáng để mô tả trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử, càng ít hơn nữa
cho trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử, ngay dù nó có thích hợp với một khái
niệm tập chú vào Trung Hoa của trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử. 5 Chúng
tôi sẽ cố gắng để chứng minh sự khẳng quyết này bằng việc vạch ra ba thiên kiến
của mô hình Fairbank: chủ trương tập trung vào Trung Hoa (Sinocentricism), nhấn
mạnh thái quá trên các yếu tố nghi thức, và trình bày quá đáng về các nước Đông
Nam Á và Tây Phương.
Sau đó, chúng tôi sẽ khảo sát để minh chứng sự
can thiệp của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1788-1789 và kết cuộc của
nó, xuyên qua một sự sử dụng đối chiếu các tác phẩm của các sử gia về các quan
hệ Trung-Viêt trong lịch sử. Chúng tôi sẽ đặt tiêu điểm vào các ca9n bản
quyền lực nhóm, các quan điểm của các nhà cấu tạo quyết định và mối quan hệ
giữa chúng. Ghi nhớ rằng các căn bản quyền lực được định nghĩa như các
nguồn gốc mà bởi sự động viên, A có thể ảnh hưởng đến B theo các cách thích hợp
với các quan điểm của A, điều tiếp đó được định nghĩa như một loạt các mục đích
của A, các cung cách của anh ta về việc liên hệ các mục đích với các giải pháp
chính sách, và các giả thiết căn bản của anh ta. 6 Bằng
việc làm như thế chúng tôi sẽ cố gắng để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các đề
xuất lý thuyết và các giả thiết cơ câu-lịch sử. Sự tường thuật việc can
thiệp sẽ trình bày một cách sống động sự điều hành thực tế của Trung Hoa trong
các sự vụ ngoại giao, đối nghịch với ý niệm thường có tính chất lừa dối cũng
như theo đó tự lừa dối, do sự cách biệt nhận thấy được giữa huyền thoại và thực
tế, như được phô bày trong sự đối đầu với một đối thủ vừa có tính chất cách
mạng lẫn thực tế. Chúng tôi sẽ đưa ra công thức của chúng tôi về trật tự
thế giới Đông Á trong lịch sử đi xa hơn, trong một cách làm giảm nhẹ các yếu tố
văn hóa và ý thức hệ -- được nhấn mạnh quá nhiều trong mô hình của Fairbank –
và nâng cao các yếu tố quyền lực quân sự, hay một cách mở rộng hơn, quyền lực
nói chung.
Sau cùng, để tăng cường lập luận của chúng tôi,
chúng tõi sẽ lập bảng kê các trường hợp lịch sử của các sự can thiệp và xâm
lăng giữa Trung Hoa và Việt Nam và phác họa các phương thức tạo thành khuôn mẫu
lịch sử mà chúng tôi cảm thấy sẽ chứng minh sự vô giá trị rõ ràng của mô hình
Fairbank. Để kết luận, chúng tôi sẽ lập luận: 1) rằng trật tự thế giới
Đông Á trong lịch sử đã phô bày các khuôn mẫu ít tính chất nguyên khối, và đa
diện hơn ấn tượng mà mô hình Fairbank có thể mang lại; 2) rằng quyền lực trong
nghĩa rộng và quyền lực quân sự nói riêng đã đóng một vai trò trọng yếu trong
trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử, giống như nó đã làm trong phần lớn các
trật tự thế giới lịch sử khác; và 3) rằng các nghi thức văn hóa và ý thức hệ đã
có khuynh hướng, nhiều nhất, là các sự khoa trương hay ngay cả các sự ám ảnh
của Trung Hoa –- nếu các nghi lễ có nổi bật lên, so với các trật tự thế giới
khác – thường được khai thác một cách trọn vẹn bởi các nhà lãnh đạo lân bang
hầu tạo thuận lợi cho họ cũng như để “làm vừa lòng” về mặt chính trị và thoải
mái về mặt tâm lý 7 của các nhà lãnh đạo Trung Hoa.
II. Các Sự Hình Dung Của
Các Sử Gia
Về Trật Tự Thế Giới Đông
Á Trong Lịch Sử
Chương dẫn
nhập của Fairbank trong sách năm 1968 không đưa cho chúng ta một hình ảnh thật
rõ rệt như bài viết hồi năm 1941 của Fairbank và Teng, trong đó các tác giả đặt
giả thuyết hai phần tử quan trọng như các động lực thúc đẩy của hệ thống triều
cống: sự khẳng quyết về văn hóa và đạo lý về phía các nhà lãnh đạo Trung Hoa và
sự theo đuổi các quyền lợi kinh tế và vật chất về phía các nhà lãnh đạo các lân
bang. 8 Hai thành tố này, mô hình ám chỉ, đã tạo ra các sự
tương tác tương đối hòa bình giữa Trung Hoa và các tác nhân láng giềng trong
trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử. Một độc giả quyển sách năm 1968
có thể thắc mắc là liệu Fairbank đã thay đổi quan điểm nguyên thủy năm 1941 của
ông về hệ thống triều cống bởi bảng tóm tắt của chương dẫn nhập của quyển
sách năm 1968 trông phức tạp hơn nhiều so với mô hình “hai yếu tố”. 9 Nhưng
khi độc giả đọc quyển sách năm 1971, người đó tìm thấy rằng mô hình “hai yéu
tố” nguyên thủy của Fairbank về trật tự thế giới Trung Hoa lịch sử được giữ
hoàn toàn nguyên vẹn. 10 Trong sách ấn hành năm 1968, ông
đã viết một cách chính xác:
“Trật tự thế giới Trung Hoa là một ý niệm chỉ thống hợp với cứu cánh của Trung Hoa và trên một mức độ chuẩn mực, như là một khuôn mẫu lý tưởng”. 11
Tuy nhiên, khi cung cấp một bảng tóm lược các
mục tiêu và phương tiện của các khảo hướng của Trung Hoa đối với các lãnh vực
quốc ngoại, ông dường như tự mâu thuẫn. Điều đó có nghĩa, khi cố gắng
biểu thị đặc điểm các mục tiêu và phương tiện của Trung Hoa trong việc quản lý
các quan hệ ngoại giao, ông dường như đã bơm một khái niệm tập trung vào Trung
Hoa của việc quản lý “các dân mọi rợ” thành các động lực của chính “các dân tộc
mọi rợ” muốn duy trì mối quan hệ với Trung Hoa.
Chính từ
đó, thí dụ, Fairbank nêu ý kiến rằng các phương tiện chính yếu trong chính sách
của Trung Hoa đối với Hàn Quốc (vốn thuộc vào vùng mà Fairbank gọi là Khu Vưc
Trung Hoa: Sinic Zone) dưới thời nhà Thanh là có tính chất “văn hóa” và “ý thức
hệ”. 12 Bất kể nhiệt tình của người Hàn Quốc để hấp thụ
văn hóa Trung Hoa mạnh mẽ đến đâu, không thể nào biểu thị được các quan hệ
Trung Hoa – Hàn Quốc dưới thời nhà Thanh mà không ghi nhớ trong đầu sự nhục nhã
và cảm giác bất lực bị cảm thấy bởi người Hàn Quốc khi họ đã chiến đấu và đã
thua ba cuộc chiến tranh với người Mãn Châu hồi đầu thế kỷ thứ 17. Trước
tiên, chính sự sử dụng sức mạnh quân sự, và sau này, sự định chế hóa hồi ức
này, đã định hình một cách nền tảng nhất các quan hệ Trung Hoa – Hàn Quốc dười
thời nhà Thanh. 13
Cùng sự phê
phán có thể được đưa ra đối với sự giải thích của Fairbank về các quan hệ của
Trung Hoa với Tây Tạng (thuộc vào vùng mà Fairbank gọi là Khu Vực Nội Địa Á
Châu). Trái với khái niệm tập trung vào Trung Hoa trong mối quan hệ Trung
Hoa – Tây Tạng, chính Mãn Châu còn “thua kém” về mặt tôn giáo so với người Tây
Tạng. Nhà lãnh đạo chính-trị-kiêm-tôn-giáo của Giáo Phái Lạt Ma đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ không chỉ trên người Tây Tạng và một số người Mãn Châu mà còn cả trên
người Mông Cổ, dân tộc mà sự đe dọa – trước tiên có thực và sau này thì tiềm ẩn
– đã là một trong các mối quan ngại nhất của các nhà lãnh đạo Mãn Châu.
Phải chờ mãi sau khi người Mãn Châu đã loại bỏ các bộ tộc Khoshuds và Dungars
[hai bộ tộc chính của giống dân Oirat, thuộc Mông Cổ, chú của người dịch] ra
khỏi Tây Tạng bằng vũ lực hồi giữa thế kỷ thứ 18, người Mãn Châu mới tự nghĩ
mình là “ưu việt” hơn người Tây Tạng. 14 Một lần
nữa, điều trọng yếu là sức mạnh quân sự. Nó chỉ được sử dụng “một cách
ngắn ngủi” nhưng vai trò của sức mạnh quân sự đã không có tính chất “thứ yếu”
chút nào, ngược với sự hình dung bởi Fairbank. 15
Nhìn vào
các quan hệ ngoại giao của Trung Hoa từ quan điểm tập trung vào Trung Hoa không
làm phong phú sự hiểu biết của chúng ta về các quan hệ ngoại giao của Trung Hoa
trong lịch sử được nhiều. Khuynh hướng nhấn mạnh quá đáng học thuyết tập
trung vào Trung Hoa như một yếu tố giải thích trong các quan hệ ngoại giao vùng
Đông Á dường như có ảnh hưởng đến một số nhà Trung Hoa học (Sinologists) –
những người tin tưởng trung kiên nơi tính độc đáo của văn hóa Trung Hoa. 16 Sự
nghiên cứu các quan hệ ngoại giao của Trung Hoa không nên giới hạn các quan
điểm khảo cứu của nó vào phía Trung Hoa không thôi. Trong thực tế, những
gì mà mô hình “hai yếu tô’ của Fairbank mang lại cho chúng ta dường như nhiều
hơn là phiên bản phức tạp của khái niệm tập chú vào Trung Hoa trong các quan hệ
ngoại giao của Trung Hoa.17
Mặc dù ít
hiển nhiên hơn thiên kiến tập chú vào Trung Hoa lộ liễu, Fairbank dường như
cũng có khuynh hướng nhấn mạnh đến sự duy trì các quan hệ ngoại giao “bình
thường” 18 như được biểu trưng bởi việc khấu đầu (kowtow),
mậu dịch và quà tặng hơn là các sự thay đổi quyết liệt trong các quan hệ ngoại
giao “bình thường” của chiến tranh, nơi mà vốn liếng của các bên liên hệ được
biểu lộ một cách sâu đậm nhất. Ngoài việc không rõ liệu sự nhấn mạnh của
ông đã phát sinh từ thiên kiến “cấp tiến” của ông hay không, sự kiện rằng nhiều
thứ trong các nghi lễ vào lúc “quan hệ bình thường” nhiều nhất vẫn chỉ là các
sự khoa trương của các nhà lãnh đạo Trung Hoa. Các sự khoa trương này
không được tán thưởng nồng nhiệt mấy hoặc bởi các nhà lãnh đạo và dân chúng của
các nước láng giềng hay bởi người dân Trung Hoa, như thể đã được tuyên xác bởi
các tài liệu lịch sử Trung Hoa được bảo trợ bởi các nhà lãnh đạo Trung Hoa. 19
Mặc dù có thể giải thích trật tự thế giới Trung Hoa theo khái niệm của Trung
Hoa về trật tự thế giới, thế giới quan Trung Hoa không đồng nghĩa với trật tự
thế giới của Trung Hoa, càng ít đúng hơn nữa với trật tự thế giới Đông Á
Châu. Để nhìn xuyên qua và vượt quá thế giới quan khoa trương và vị kỷ
này, chúng ta phải nhìn vào các thời kỳ của sự thay đổi trong các quan hệ ngoại
giao – thực sự hay tiềm ẩn – để xác định đâu là điều trọng yếu cho cả đôi bên
và đến diễn tiến của lịch sử.
Hơn nữa, có
thể là không may rằng Fairbank và Teng đã nhấn mạnh thái quá đến các nước Đông
Nam Á và Tây Phương (vốn thuộc vùng mà Fairbank gọi là Khu Vực Vòng Ngoài:
Outer Zone). Không có gì nghi ngờ rằng các nước này, ít nhất, thích hợp
xem ra rất khít khao với mô hình “hai yếu tố”. Tuy nhiên các nước Đông
Nam Á đã không có nhiều cơ hội để phát động chiến tranh với Trung Hoa. 20 Các
quan hệ của chúng với Trung Hoa nhiều lắm có tính chất ngoại vi. Cũng vậy, sự
quan tâm trí thức của chính Fairbank về sự đối đầu của Trung Hoa với khối Tây
dường như dẫn dắt ông đến việc trình bày quá mức các nước Tây Phương trong
khuôn khổ của ông. 21 Ngay dù các nhà lãnh đạo Trung Hoa
có cực kỳ sung sướng để khoa trương con số các nhà lãnh đạo triều cống, bản
thân con số đích thực, như được biên soạn từ các tài liệu lịch sử được bảo trợ
bởi các nhà lãnh đạo Trung Hoa, không tiết lộ mấy, mà nó còn xuyên tạc những gì
là thực chất trong các quan hệ ngoại giao của Trung Hoa, ít nhất trong trường
hợp này. Mặc dù các nước Tây Phương đã phát động các cuộc chiến tranh
đánh Trung Hoa sau này trong thế kỷ thứ 19, mối quan tâm khởi thủy của chúng
với Trung Hoa là công cuộc mậu dịch. Điều trọng yếu trong các quan hệ
Trung Hoa – Tây Phương trong thế kỷ thứ 19 là sự cưỡng hành bằng tàu vũ
trang. Một lần nữa, yếu tố quân sự đã nổi bật khi các quan hệ của họ trở
thành phi-ngoại vi (non-peripheral) đối với Trung Hoa.
Tóm lại,
chúng ta đã vạch ra rằng mô hình của Fairbank có ba thiên kiến: tâp chú vào
Trung Hoa, nhấn mạnh thái quá đến các thành tố nghi lễ, và trình bày quá mức về
các nước Đông Nam Á và Tây Phương. Các thiên kiến này, được hỗn hợp trong
tư tưởng của Fairbank, đã sản sinh ra một bức tranh có phần cực kỳ sai lạc về
trật tự thế giới của Trung Hoa trong lịch sử, chưa nói đến trật tự thế giới của
Đông Á Châu trong lịch sử. Điều mỉa mai rằng mô hình tập chú vào Trung
Hoa của Fairbank lại thích hợp hơn cho vùng mà ông mệnh danh là Khu Vực Vòng
Ngoài và phơi bày các sự thích nghi kém hơn cho các vùng mà ông mệnh danh là
Khu Vực Trung Hoa và Khu Vực Nội Á.
Cho đến nay
chúng ta đã tập trung vào mô hình của Fairbank. Giờ đây chúng ta sẽ xét
xem các nhà sử học về các quan hệ ngoại giao của Trung Hoa đã biểu thị chúng
như thế nào.
Bảng 1
Các Yếu Tố Nổi Bật Của Mối Quan Hệ 22
Tiêu Mốc Không-
Tác
Giả Quân
Sự Kinh
Tế Văn
Hóa Hành Chính
Thời Gian
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Các nước ĐNA &
Fairbank
X
X
Tây
Phương
Teng
Thời Nhà Thanh
1941
Tây Tạng
Suziki
X1
X5
X6
X9
Thời Nhà Thanh
1962
Việt Nam thời
Suzuki
X2
X4
Nhà Thanh
1967/1966
Các Nước Trung
Á Fletcher
X
X3,4 X6
X9
Thời Minh/Thanh
1968
Các Bộ Tộc
Tungus Lee
X1
X
X8
X9
Thời Nhà Thanh
1970
Nga
Mancall
X12
X
X7
Thời Nhà Thanh
1971
Hòa Lan
Wills
X1
X4
Thời Nhà Thanh
1968
Hàn Quốc
Inaba
X
X3
Thời sơ Thanh
1033/34
Nội
Mông/Khalkha Tayama
X12
X8
X9
Thời Nhà Thanh
1954
Các Bộ Lạc Tây Nam Obayyashi
X
X9
Thời Minh/Thanh
1971
Đông Nam Á
Wang
X
X4
Thời Nhà Thanh
1968
Hung Nô
Yu
X2
X4
Thời nhà Hán
1967
________________________________
1. Sự cứu xét chiến lược mạnh mẽ
2. Thường hay đôi khi hùng mạnh hơn Trung Hoa
3. Trung Hoa (hay Mãn Châu) đáng chú ý hơn
4. Hải Tặc/Thổ Phỉ quấy phá Trung Hoa
5. Sự đóng góp tài chính cho giáo chủ tôn giáo
6. Ưu việt hơn Trung Hoa
7. Trung lập về văn hóa với nhau
8. Bị tách rời ra khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa
9. Sự kiểm soát lỏng lẻo
Bảng này có chủ ý để định vị trường hợp nghiên
cứu của chúng tôi trong một quan điểm đối chiếu. Không có bảng này, cuộc
nghiên cứu của chúng tôi dễ bị rơi vào cùng cạm bẫy mà các cuộc nghiên cứu khác
đã phải chịu. Để bảo đảm tính khả dĩ so sánh, chúng tôi chấp nhận các sự
phân loại đơn giản về “quân sự, kinh tế, văn hóa và hành chính”. Bất kể
sự hy sinh không thể tránh khỏi về sự phong phú về lịch sử, bảng trên cho thấy
sự đa dạng đáng kể. Và sự đa dạng như được phát lộ trong bảng không mang
lại nhiều sự khích lệ để tạo ra sự khác biệt văn hóa-địa dư đã được lập ra bởi
Fairbank, thí dụ, Các Khu Vực Trung Hoa, Nội Á Châu và Vòng Ngoài. 23Những
gì bảng phô bày cho chúng ta ngoài tính đa dạng, it nhất có các điểm như sau:
1) rằng yếu tố quân sự có tính chất không chế trong việc định hình các quan hệ
ngoại giao của Trung Hoa; 2) rằng yếu tố văn hóa 24 không
chỉ có tính chất phi-chủ yếu, hơn nữa tinh tối thượng thường được tuyên xưng
của người Trung Hoa đã không được nhìn nhận bởi nhiều nhà lãnh đạo láng giềng
và còn bị đảo ngược bởi người Tây Tạng 25 và dân Trung Á 26 xuống
mức thấp nhất; 3) rằng sự kiện thường xảy ra là người Trung Hoa thì thua kém về
mặt quân sự trong sự đối đấu thực sự bất kể sự ưu việt tiềm tàng của họ; 4)
rằng yếu tố chiến lược thì rất quan trọng trong các trường hợp như người Tây
Tạng (đối với bộ lạc Dzungars) và Hòa Lan (đối với phe theo nhà Minh tại Đài
Loan); 5) rằng yếu tố kinh tế thì rất quan trọng trong hầu hết các trường hợp
được khảo sát nơi đây; 6) rằng nạn hải tặc và thổ phỉ thì quan trọng như một
loại tương tác “quốc tế”, đã dẫn dắt các nhà lãnh đạo Trung Hoa đên việc quy
định công cuộc thương mại bằng “hệ thống triều cống’” 27 hay
không ngăn cấm mậu dịch; và 7) rằng sự kiểm soát hành chính thì lỏng lẻo trong
hầu hết các trường hợp khảo sát nơi đây.
Một thoáng
nhìn vào bảng cho chúng ta biết rằng bất kỳ loại “phân tích yếu tố” nào, có
thống kê hay không, sẽ không trích xuất hai yếu tố, văn hóa và kinh tế, thành
các yếu tố quan trọng nhất. Đúng hơn, các mệnh đề phát sinh từ bảng dường
như làm vững mạnh hơn ba luận đề của chúng tôi về trật tự thế giới Đông Á trong
lịch sử, phần lớn sẽ được trình bày một cách cụ thể và đào sâu hơn nữa trong
các trang tiếp theo: 1) rằng trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử thì đa
diện như hầu hết các trật tự thế giới trong lịch sử khác và không được sắp xếp
theo sự phân biệt thành ba tầng của các Khu Vực Trung Hoa, Nội Á và Vòng Ngoài
được đưa ra bởi Fairbank 28; 2) rằng trong trật tự thế giới
Đông Á trong lịch sử, quyền lực nói chung và quyền lực quân sự nói riêng có
tính chất chủ yếu trong các sự vụ “quốc tế”, như trong phần lớn các trật tự thế
giới trong lịch sử khác, bất kể khuynh hướng của Trung Hoa muốn né tránh sự
hành sử quyền lực nhờ ở sự chế ngự trung tâm của Trung Hoa tại Đông Á và khả
năng rất hạn chế để huy động của Trung Hoa; 3) rằng bất kể sự nổi bật của nó,
hạ tầng cơ sở ý thức hệ và văn hóa Trung Hoa có khuynh hướng lừa dối cũng như
khoa trương -- có tính chất quan trọng nhất đối với người Trung Hoa – đặc biệt
khi Trung Hoa không thật mạnh.
III. Sự Can Thiệp Của
Trung Hoa Tại Việt Nam
Và Hồi Kết Cuộc Của Nó
Trong đoạn này, chúng tôi sẽ trình bày một diễn
tiến biến cố ngắn gọn về sự can thiệp của Trung Hoa tại Việt Nam và kết cuộc
trong các năm 1786-1802. Sự trình bày và phân tích cuộc xung đột này về
mặt các căn bản quyền lực và các quan điểm sẽ được cố gắng trong hai đoạn kế
tiếp. Ba đoạn này có chủ định để chứng thực, nếu không toàn thể, lập luận
của chúng tôi đã được nêu ra trong đoạn trước xuyên qua một sự giải trình sống
động về cuộc xung đột trong khung cảnh của điều được gọi là hệ thống triều
cống.
Triều đại
nhà Thanh (1644-1911) và nhà Lê (1427-1527 và 1592-1789) đã có một mối quan hệ
tương đối ổn định cho đến khi cuộc nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ trong năm 1771, 29 châm
ngòi cho sự can thiệp của Trung Hoa trong các năm 1788-1789. Lợi dụng
cuộc nổi dậy của Tây Sơn chống lại chúa Nguyễn vốn đã chia cắt và kiểm soát xứ
sở để tranh giành với chúa Trịnh từ giữa thế kỷ thứ 16, 30 lực
lượng họ Trịnh đã tấn công và chiếm cứ Huế và Quảng Nam trong năm 1775. 31 Họ
Nguyễn chạy trốn về Gia Định bằng đường biển. Lực lượng Tây Sơn đầu hàng
có tính cách chiến thuật và ký kết một sự hưu chiến với lực lượng họ
Trịnh. Hướng lực lượng của mình xuống phía nam, lực lượng Tây Sơn
đã gần như hoàn tất cuộc trấn áp họ Nguyễn tại Gia Định vào năm 1777, và trong
năm 1778 Nguyễn Nhạc, người anh cả trong ba anh em Tây Sơn, tự tuyên xưng làm
hoàng đế. Tuy nhiên, cuộc tranh giành giằng co giữa lực lượng Tây Sơn và
Nguyễn Ánh, kẻ cuối cùng của hoàng tộc họ Nguyễn, trên phần đất Gia Định vẫn
tiếp tục sau đó. Trong năm 1786, lợi dụng các cuộc đấu tranh phân hóa bạo
động trong lãnh địa họ Trịnh và được dẫn đường bởi một trong hai nhóm của họ
Trịnh cạnh tranh nhau, lực lượng Tây Sơn mở lối xông tới Huế và đột kích Hà Nội
để đánh bại họ Trịnh, mặc dù vẫn giữ lại trên danh nghĩa vị hoàng đế họ Lê tại
Hà Nội. Bởi vì vị hoàng đế họ Lê 32 đánh mất “ân tín
lạc đà”, vốn được ban cấp bởi hoàng đế nhà Thanh, và hơn nữa đã băng hà trong
năm kế đó, vị hoàng đế mới nhà Lê đã thỉnh cầu hoàng đế nhà Thanh chấp nhận ông
ta làm kẻ lãnh đạo của Việt Nam. Nhìn thấy sự kiềm chế của Tây Sơn trên
Hà Nội bị suy yếu, như được làm bằng bởi hành động độc lập của vua Lê, Nguyễn
Huệ, nhà lãnh đạo Tây Sơn mới nổi lên, nhiều tham vọng, một lần nữa tiên quân
ra Hà Nội, buộc vị hoàng đế họ Lê phải chạy trốn khỏi Hà Nội và thỉnh cầu nhà
Thanh can thiệp trong năm 1788. Giống y như các trường hợp trước đây của
sự can thiệp của Trung Hoa (xem Bảng 2), đã có hai sự lựa chọn cho Trung Hoa:
can thiệp cho nhà vua cũ, hay chấp nhận một nhà lãnh đạo mới. Nếu sự can
thiệp được lựa chọn, khi đó câu hỏi kế tiếp là đến mức độ nào: hoặc là tung ra
một lực lượng lớn và do đó đánh liều một phí tổn cao đổi lấy các lợi lộc ước
định, hay giới hạn lực lượng ở một kích thước nhỏ và chấp nhận bất trắc là sự
can thiệp kéo dài với một phí tổn ngày càng gia tăng hay bị khuất phục bằng sự
hy sinh các mục đích nguyên thủy, nếu có. 33 Như chúng tôi
sẽ trình bày, hoàng đế nhà Thanh thực sự đã không xác định vấn đề theo cung
cách rõ ràng này, và đã thay đổi chính sách từ sự can thiệp đến sự chấp nhận
khá vụng về. Kết quả là sự chiến thắng của lực lượng Tây Sơn, sự thất bại
của nhà Thanh và sự biến mất của triều dại nhà Lê và họ Trịnh ra khỏi cảnh trí
chính trị của Việt Nam. 34
Tác nhân
hàng đầu của cuộc chiến tranh, Nguyễn Huệ, đã có các đối thủ khác để đối đầu
ngoài nhà Lê và nhà Thanh. Họ là người anh của ông, Nguyễn Nhạc tại Qui
Nhơn, và kẻ tự xưng vương, Nguyễn Ánh, tại Gia Định. Các anh em Tây Sơn
bất hòa với nhau, đặc biệt sau cuộc tấn công của Nguyễn Huệ vào Hà Nội năm
1786. Nguyễn Huệ trở về từ Hà Nội và bao vây Nguyễn Nhạc tại Qui
Nhơn. Nhưng tình hình tại miền bắc buộc Nguyễn Huệ phải chấp nhận một sự
hưu chiến gượng ép với Nguyễn Nhạc. Việc này đưa đến sự phân chia đất
nước giữa ba anh em. Nguyễn Nhạc cai trị từ Qui Nhơn phần giờ đây là phía
bắc của Nam Việt Nam và phía nam của Bắc Việt Nam, và Nguyễn Lữ cai trị khu vực
Châu Thổ sông Cửu Long từ Gia Định. Nguyễn Lữ chết trẻ và trong lúc
Nguyễn Huệ bị cuốn hút vào cuộc chiến tranh chống nhà Thanh, Nguyễn Huệ đã tự
tuyên cáo là hoàng đế của Việt Nam. Sau Trận Đánh Chớp Nhoáng của Nguyễn
Huệ hồi Tết năm 1789, ông đã trở thành nhà lãnh đạo thực sự của Việt Nam và
được chấp nhận làm quốc vương của Việt Nam bởi hoàng đế Càn Long trong năm
1789. Tiến trình biến đổi từ sự can thiệp thành sự chấp nhận vừa phức tạp
vừa thú vị và chúng ta sẽ quay trở lại điều đó sau này. Nguyễn Huệ hoàn
toàn lãnh đạm về “việc khấu đầu: kowtowing” trước sự ám ảnh của Trung Hoa về
quyền chủ tể nặng tính chất lễ nghi. Hoàn toàn gạt bỏ sự tuân hành nghi
lễ đối với hoàng đế nhà Thanh, ông còn hoạch định việc xâm lăng và chinh phục
các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, quê hương cổ thời của người Việt Nam (Yueh)
trước khi có sự chinh phục của nhà Hán. Ông đã cho đóng các tàu lớn để
chở các con voi và binh sĩ sang xâm lăng Quảng Đông và Quảng Tây. Sự thay
đổi trong chính sách đối với Trung Hoa của ông xẩy ra bởi sự thất bại của ông
để giải quyết một cách hòa bình vấn đề thu hồi một số khu vực biên giới khi đó
nằm dưới ảnh hưởng của các du-si [không rõ là phiên âm tiếng
Hán hay tiếng Nhật trong nguyên bản, ức đoán có thể có nghĩa thổ phỉ,
chú của người dịch] Trung Hoa.
Các nỗ lực của ông chỉ bị đình chỉ bởi cái
chết đột ngột của ông trong năm 1792. 35 Tinh thần suy sụp
của Tây Sơn sau cái chết của Nguyễn Huệ trong năm 1792 và cái chết của Nguyễn
Nhạc trong năm 1793 làm gia tăng quyền lực của Nguyễn Ánh tại vùng Châu Thổ
sông Cửu Long, nơi ông ta sau đó đã dần dần mở rộng lên phía bắc. Khó
khăn tài chính của Tây Sơn buộc họ phải thuê mướn, bằng việc chuẩn cấp các tước
vị chính thức của Việt Nam, các hải tặc Trung Hoa là các kẻ hoành hành dọc bờ
biển Nam Trung Hoa. 35 Bất kể các nỗ lực của Tây Sơn, sau
rốt họ bị đánh bại bởi Nguyễn Ánh, kẻ, thoái hóa trong quan điểm chính trị của
mình, lại đã thừa hưởng từ Tây Sơn nghị lực của dân tộc Việt Nam. Bị quấy
nhiễu và mệt mỏi về các cuộc nổi dậy và quân hải tặc và còn mang ký ức chua
chát của năm 1789, các hoàng đế Càn Long và Gia Khánh đã không ở vào tâm trạng
can thiệp gì hết trong suốt thời kỳ có sự tranh giành quyền lực giữa Tây Sơn và
Nguyễn Ánh hay khi Nguyễn Ánh lên nắm quyền lực tại Việt Nam trong năm 1802 với
vương hiệu Gia Long. 37 Hoàng đế Càn Long đã có một chính
sách nhượng bộ gần như trắng trợn đối với Tây Sơn liên quan đến vấn đề hải
tặc. Giấc mơ của hoàng đế Gia Long về việc chinh phục Quảng Đông và Quảng
Tây đã không được thi hành chút nào và các quan hệ nói chung hòa bình được nhận
thấy giữa họ. Nạn hải tặc tại Biển Nam Trung Hoa dần dần biến mất khi
Nguyễn Ánh chính thức ngăn cấm sự sử dụng các hải cảng trên bờ biển Việt Nam
đối với quân hải tặc Trung Hoa. Đường bộ giữa Trung Hoa và Việt Nam được
mở lại. Hòa bình giữa hai nước sắp bị phá vỡ khi người Pháp trở thành tác
nhân chính trị hàng đầu tại bán đảo Đông Dương vào cuối thế kỷ thứ 19. 38
IV. Các Căn Bản Quyền
Lực Nhóm:
Trung Hoa Thời Nhà Thanh
và Việt Nam Thời Tây Sơn
Chúng tôi giờ đây sẽ xác định và mô tả các nền
tảng quyền lực nhóm tại Trung Hoa và Việt Nam đã đặt ra các sự kiềm chế trên
các hành động của chúng. Chúng tôi sẽ khảo sát chính yếu các điều kiện
kinh tế và xã hội cùng các định chế chính trị và quân sự. Chúng tôi sẽ mô
tả các căn bản quyền lực của Trung Hoa và Việt Nam để cho thấy: 1) rằng hoàng
đế Càn Long đã có một khả năng động viên cực kỳ hạn chế và đã phải đối phó với
các vấn đề nghiêm trọng trong sự thông tin và kiểm soát tệ nạn quan liêu đế
triều bởi sự ôm đồm quá sức cơ bản, trong việc định chế hóa chặt chẽ khi đối
diện với sự gia tốc liên tục các lực lượng kinh tế và xã hội; và 2) rằng Nguyễn
Huệ đã thụ hưởng một khả năng động viên cao độ nhờ sự lưu động chính trị và xã
hội phát sinh từ các sự mâu thuẫn kinh tế và xã hội tích lũy từ lâu và được
châm ngòi bởi cuộc nổi dậy của Tây Sơn. Sư mô tả sau đây về các nền tảng
quyền lực nhóm sẽ được xem làm căn bản cho các quan điểm của các người cấu tạo
quyết định trong các đoạn kế tiếp.
Trung Hoa
Triều đại nhà Thanh thường được nghĩ ở vào đỉnh
điểm của sự ổn định và thịnh vượng của nó vào lúc khởi sự sự can thiệp của
Trung Hoa tại Việt Nam trong năm 1788-1789, sau sự trấn áp các dư đảng nhà Minh
và các kẻ cộng tác cũ nổi loạn tại Đài Loan và Miền Nam Trung Hoa hồi cuối thế
kỷ thứ 17, và [trước] khi cuộc nổi loạn của Bạch Liên Giáo bùng nổ (1796-1804). 39 [Đoạn
này trong nguyên bản viết lủng củng, sai văn phạm, hay do sắp chữ sai, nhưng có
thể đoán được ý chính của tác giả, chú của người dịch]. Vào giữa thế kỷ
thứ 18, các kẻ thù đáng sợ trong truyền thống ở phương bắc đã bị khuất phục
và/hay bị trừ khử. Ngoài các bộ lạc Nội Mông quan trọng là các kẻ đã bị
khuất phục trước và sau năm 1644, các người Mông Cổ Khaika đã thần phục nhà Mãn
Châu hồi cuối thế kỷ thứ 17, tìm kiếm một sự che chở chống lại cuộc tấn công
của người Dzungars là các kẻ sau này chính họ sẽ bị tiều diệt gần hết bởi vua
Càn Long trong các năm 1755-1759. 40 Sự biến mất của kẻ
thù phương bắc truyền thống đã có một hiệu quả quan trọng trên tài chính nhà
nước. Một khối lượng tiền bạc bất thường đúng ra phải chi tiêu cho sự
phòng thủ phương bắc nay được tiết kiệm. 41 Vào giữa thế
kỷ thứ 18 sự nắm giữ quyền lực của nhà Mãn Châu như thể đã được thiết lập một
cách vững chắc.
Tuy nhiên,
một cách nền tảng hơn, sự thay đổi xã hội sâu rộng đang tiếp diễn từ cuối nhà
Minh đến giữa triều đại nhà Thanh. Sự thay đổi này đã phá hoại liên tục
sự kiểm soát của Mãn Châu một trật tự nông thôn bao la bất kể các nỗ lực của họ
để tiến tới sự tập trung hóa chính trị chặt chè về mặt an ninh nội bộ và khai
thác kinh tế. 42Năng suất gia tăng của đất đai đối với lao động
và sự phân vùng và tiền tệ hóa gia tăng của sản lượng và hoạt dộng thương mại
đã buộc phải có các sự tái điều chỉnh định chế. 43 Đơn vị
chủ yếu của thuế khóa đã thay đổi từ gia đình sang đất đai. Sự kiện này
có khuynh hướng cho phép các sự thu thuế độc đoán bởi các chính quyền địa
phương bất kể sự miễn giảm đặc biệt về thuế khóa được đưa ra bởi các nhà cai
trị Mãn Châu cho nhưng kẻ mà lòng trung thành của giới tiểu điền chủ và nông
dân gốc Hán Hoa có một tầm quan trọng tối hậu. Phần lớn lao động dân công
phục vụ chính quyền địa phương đã được thay thế bởi giới chuyên nghiệp và giới
tiểu thư lại có nguồn gốc địa phương. Giới tiểu thư lại có khuynh hướng
áp đảo giới án sát cấp huyện bằng kiến thức và sự chuyên môn của nó trong việc
đối phó với dân tình địa phương. Các tổ chức xã hội phi chính phủ nảy nở
để đối phó với các vấn đề của địa phương riêng của chúng. Chúng đã không được
điều hành một cách thính đáng bởi số lượng nhỏ các phán quan cấp huyện vào một
thời điểm có sự đa trạng hóa xã hội gia tăng. 44
Trên bình
diện vi mô hơn, nạn lạm phát chậm và liên tục trong suốt thời giữa nhà Thanh đã
khích lệ sự sản xuất (và ngược lại) và điều này được tăng cường bởi nhập lượng
bạc vào Trung Hoa nhờ ở sự xuất cảng trà, lụa, và đồ gốm sứ đến các nhà mậu
dịch Tây Phương. Sự gia tăng sản xuất cho phép sự gia tăng dân số.
Tuy nhiên, đất có thể canh tác được đã không gia tăng một cách tương ứng với sự
gia tăng dân số. Các khu vực duyên hải phía đông truyền thống đã sẵn vươn
tới một giới hạn về dân số. Một số lượng lớn lao người dân di cư đến các
khu vực núi đồi chưa có người ở, nơi mà sự du nhập và phát tán khoai lang
và ngô từ ngoại quốc đã có nhiều hiệu năng hơn. Các di dân là các kẻ
không có đất và những kẻ né tránh thuế khóa nặng nề tại các khu vực đông
đúc. Một trong các khu vực quan trọng nhất tiếp nhận sự di dân này là khu
vực bao quanh ranh giới giữa Tứ Xuyên, Hồ Bắc và Thiểm Tây, nơi đã trở thành
khu vực căn cứ địa cho các cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo trong thời cuối nhà
Minh và đầu nhà Thanh, và đã sẵn vươn tới một giới hạn về dân số vào cuối thời
trị vì của Khang Hy. Tại các khu vực núi non, các di dân này đã gặp khó
khăn để phát triển đất đai. 45 Sự vắng mặt của chế độ thừa
kế bởi con trai trưởng (primogeniture) trong tập tục Trung Hoa thời hậu quý tộc
hay từ triều đại nhà Tống trở đi) làm trâm trọng thêm các tình trạng kinh tế
của giới nông dân bởi sự phân chia quá manh múng đất đai, 46 thường
trực tạo ra các nông dân không có đất và nghèo đói và thường biến họ thành các
phần tử chống xã hội thuộc nhiều loại. Họ có khuynh hướng lập ra các tổ
chức địa phương, thường đối đầu một cách hiếu động với các vấn đề chính trị và
xã hội tại địa phương của họ. 47
Một số đã
trở thành các phong trào khổng lồ như cuộc nổi dậy của phái Bạch Liên và cuộc
nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc, được tập họp quanh các ngọn cờ tôn giáo – ý
thức hệ và đã đe dọa đến chế độ Mãn Châu. Tuy nhiên, các phong trào khác
vẫn còn bị địa phương hóa. Nhiều hội kín theo truyền thống hội Tam Hợp
thuộc loại sau này, vốn đã giành được sự nổi bật trong năm 1786 khi một cuộc nổi
dạy của hội Tam Hợp đã xảy ra tại Đài Loan. 48 Các cuộc
nổi dậy của các hội Tam Hợp thường xuyên xảy ra tại Miền Nam Trung Hoa vào lúc
cuối thời vua Càn Long và sau đó. Nạn hải tặc dọc bờ biển Quảng Đông, Phúc Kiến
và Chiết Giang trở nên lan tràn kể từ cuối thời Càn Long trở đi. 49 Mậu-dịch-kiêm-hải-tặc
dọc bờ biển Phúc Kiến đã hiện diện từ năm 1500 trở đi, nhưng các hải tặc thường
trở nên được tổ chức khá hơn bằng việc gia nhập các hội kín để có được tín dụng
và sự bảo vệ. Bởi mậu dịch đường biển có lợi nhận khổng lồ, giới hải tặc
cũng phát tài.
Các nông
dân và ngư phủ thất nghiệp thường trở thành các hải tặc, và nhiều người trong
họ được tuyển dụng bởi anh em Tây Sơn tại Việt Nam, những kẻ đã cần khủng khiếp
tiền bạc và quân liệu cho cuộc chiến tranh của họ chống lại Nguyễn Ánh.
Nạn hải tặc dọc Đại Vận Hà nối liền các vùng lúa gạo phì nhiêu của Giang Nam và
Hồ Quảng với kinh đô cũng gia tăng. 50 Các hầm
mỏ có khuynh hướng thu hút các phần tử thất nghiệp và do đó có tiềm năng hay
thực sự chống lại xã hội và trở thành tiêu điểm của các sự rối loạn và các cuộc
nổi dậy. Đây là một vấn đề nghiêm trọng cho chế độ bởi họ cần khủng khiếp
một sự gia tăng mau chóng trong việc đúc tiền bằng đồng vì nạn lạm phát và sự
lưu hành rộng rãi các tiền đồng do tư nhân sản xuất. Bởi vì nạn lạm phát
liên tục tiếp diễn và tiền lương của các viên chức gần như cố định ở biểu xuất
được ấn định vào lúc bắt đầu triều đại nhà Thanh, tham những được xem là chuyện
đương nhiên. Điều cũng quan trọng là sự nghèo đói và sự sa sút về
tinh thần của quân đội chính quy, quân Bát Kỳ (Eight Banners) và Đội Quân Tiêu
Chuẩn Màu Xanh Lục (Green Standard Army). Gây ra bởi nạn lạm phát, tiền
lương cố định, sự cấm đoán việc canh tác của các binh sĩ thuộc Bát Kỳ, và sự
đánh mất các tập quán và khí lực quân sự Mãn Châu trong thế giới Hán hóa, sự sa
sút tinh thần đã không được nhận thấy trong các chiến dịch thời ban sơ của vua
Càn Long. Nhưng điều đó sẽ bị phơi bày trong các chiến dịch trấn áp cuộc
nổi dậy của giáo phái Bạch Liên và cuộc nổi dậy trên đường biển vào lúc cuối
của thời vua Càn Long và lúc đầu của thời vua Gia Khánh. 52 Vấn
đề là có quá nhiều các binh sĩ không dám giao chiến. Họ không quá khác
biệt với quân nổi dậy, hoặc các thổ phỉ hay hải tặc về mặt các nguồn gốc xã hội
và động thái của họ. Cũng thế, các sự trưng tập đông đảo các binh sĩ
thường mang lại các sự xáo trộn và nổi dậy, làm giảm năng lực động viên của
hoàng triều một cách lớn lao.
Sự tăng
trưởng bất thường của năng suất và dân số và sự thay đổi xã hội tiếp theo
từ cuối thời nhà Minh đến giữa thời nhà Thanh có khuynh hướng áp đảo các nỗ lực
của con người để ngăn chặn chúng. Với số quá ít các quan án sát quận hạt
và với khoảng 700,000 – 800,000 binh sĩ trong toàn đế quốc, guồng máy nhà nước
đã có khuynh hướng bị tràn ngập công việc. Sự truyền thông vô hiệu năng
và sự thiếu sót một cách khác thường sự phối hợp tự hiển hiện trong guồng máy
thư lại hoàng triều, đặc biệt vào một thời điểm của việc hoạch định và thi hành
chính sách không thường xuyên. 53 Vấn đề này còn trầm trọng
hơn bởi sự ổn định và thịnh vượng của hoàng triều. Các điều kiện kinh tế
tại nông thôn càng trầm trọng hơn đối với nông dân. Các phần tử phản xã
hội thường xuyên được sinh ra, hệ thống thư lại hoàng triều ngày càng vô hiệu
năng, và nền tảng quân sự của sự cai trị của Mãn Châu bị suy yếu. Tuy
nhiên, không điều nào trong các điều này lại trở nên rất hiển lộ trong thời Càn
Long. Bất kẻ tất cả các điều này, nhà Thanh đã có thể và đã can thiệp tại
Việt Nam, bởi có sự vắng bóng của vấn đề phương bắc và khoản thặng dư dôi dào
của nhà nước phát sinh từ hệ thống khai thác chặt chẽ và khéo léo, được trợ lực
bởi khuynh hướng tán thành các chiến dịch của vua Càn Long. 54 Tóm
lại, bộ mặt thịnh vượng trong thời Càn Long được duy trì đàng sau các tiến
trình gia tốc một cách liên tục các vấn đề xã hội và kinh tế.
Việt Nam
Kể từ 1558 đất nước thực sự bị phân chia giữa họ
Trinh và họ Nguyễn. Sự phân chia này còn bị làm cứng rắn hơn nữa bởi cuộc
chiến tranh kéo dài từ 1627-1672. Sự kiện rằng họ Nguyễn đã bỏ chạy từ
Thanh Hóa vào Huế với các thuộc viên quân sự của họ và rằng họ đã đóng một vai
trò tích cực trong cuộc chiến tranh chống lại họ Trịnh, đã giúp cho họ Nguyễn
và người gốc Thanh Hóa độc quyền hóa quyền lực. 55 Dân bản
xứ có khuynh hướng bị loại trừ khỏi bất kỳ loại ảnh hưởng nào tại triều đình
chúa Nguyễn. Nỗ lực về phía các nhà lãnh đạo họ Nguyễn để tuyển dụng dân
bản địa vào giới quan chức xuyên qua các kỳ khảo hạch tuyển dụng công chức kiểu
Trung Hoa 58 nhằm xoa dịu sự bất mãn và khiếu nại của quần
chúng bản địa đã mang lại một sự gia tăng tương đối trong quyền lực của dân
chúng bản địa. Số đông dân chúng dưới quyền cai trị của họ Trịnh, nhưng
họ không giành được các chức vụ cao hơn giới quý tộc quân sự gốc Thanh
Hóa. Tuy nhiên, sự kiện đáng kể là một tầng lớp thư lại phi quân sự mới
đang xuất hiện dần dần giành được sự kiểm soát về thuế khóa, với sự hợp tác của
các hào mục làng xã. 57 Có một thành tố quan trọng nữa
trong hiện tượng này. Các viên chức bản địa có khuynh hướng đến từ Thừa
Thiên, Quảng Bình và Quảng Nam, trong khi Quảng Ngãi và Qui Nhơn chỉ được đại
diện cực kỳ thưa thớt. Sự kiện này đương nhiên làm nảy sinh sự bất mãn
của các thân hào địa phương tại các khu vực kể sau, điều sau này đã dẫn dắt họ
đến việc cung cấp sự ủng hộ của họ cho cuộc nổi dậy của Tây Sơn khởi sinh trong
năm 1771 gần Qui Nhơn. Chính trị của chúa Nguyễn, dựa nặng nề vào sự ủng
hộ của gia tộc ông ta và các gia tộc quân sự khác gốc Thanh Hóa có khuynh hướng
thoái hóa khi hòa bình thịnh phát sau cuộc ngưng chiên, dưới sự cai trị độc
đoán và bạo ngược của Trương Phúc Loan, kẻ kiểm soát một vị chúa thiếu nhi,
Nguyễn Phúc Thuần (trị vì từ 1765-1778), làm quấy động sự chống đối liên tục từ
bên trong cũng như bên ngoài triều đình.
Công thổ,
vốn thường là yếu tố trung tâm của xã hội Việt Nam, đã dần dần mất đi ý nghĩa
trung tâm của nó sau khi vương quốc Chàm bị chinh phục vào cuối thế kỷ thứ
15. Chàm đã từng là xứ cung cấp chủ yếu lao động nô lệ trên đó hệ thống
đất sở hữu chung lệ thuộc cao độ. 58 Mất đi một trong các
nền tảng của hệ thống, đất đai ngày càng được chuẩn cấp cho sự sử dụng riêng tư
bởi các điền chủ và các nông dân giàu có. Một nền kinh tế tiền tệ cũng
đương được phát triển. 58 Nhiều loại thuế khác nhau đã
được du nhập vào các khu vực nhiều lúa gạo phía nam Quảng Nam thì rất nặng và
tạo ra các nông dân không có đất và nghèo khổ. Tình trạng có lẽ bị làm
trầm trọng hơn bởi sự vắng bóng chế độ thừa kế bởi người con trai trưởng trong
tập quán của người Việt Nam, mặc dù nó không quá nghiêm ngặt trong nguyên tắc
phân chia đồng đều cho mọi đứa con như tập tục Trung Hoa đã thực hành. 60 Trong
tiến trình này, các nông dân không đất cầy và nghèo khó đã dễ dàng bị biến
thành các phần tử phản xã hội, hay họ di cư xa hơn nữa về phía nam. Một
loạt các thiên tai và chết đói xảy ra ngay trước cuộc nổi dậy của Tây Sơn đã bị
làm trầm trọng hơn bởi sự cai trị tàn bạo. Qui Nhơn, một thị trấn biên
cương, đã là một trong các trung tâm của các phần tử phản xã hội và dân tỵ nạn
chính trị. Không chỉ bởi nó xa cách với Quảng Nam và Huế về mặt địa dư,
mà còn bởi địa hình vừa núi non lẫn duyên hải, khiến cho các phong trào nổi
loạn thành khả thi và không bị ngăn trở.
Lãnh tụ của cuộc nổi dậy Tây Sơn, Nguyễn Nhạc,
là một cựu viên chức thuế quan tại một cảng mậu dịch quan trọng, Van-Don [Vân
Đồn?, sic] . Ông bị buộc phải chạy trốn đến Qui Nhơn bởi đã dùng tiền
công cho chi tiêu cá nhân khi làm việc, và trở thành một thủ lĩnh quân thổ phỉ. 61 Bị
khích động bởi một dân tỵ nạn chính trị từ chế độ quý tộc chúa Nguyễn tại Qui
Nhơn, ông đã khởi phát một cuộc nổi dậy, chống lại quan phụ chính độc đoán
Trương Phúc Loan. Sự trợ giúp của các hào mục làng xã, các thương nhân
giàu có, các người sống tại vùng cao nguyên, và một hội kín Trung Hoa (phe Tam
Hợp) thì rất có ý nghĩa. Sự ủng hộ của các thương nhân thì tự nhiên bởi,
bất kể nền kinh tế tiền tệ tăng trưởng, dù khiêm tốn, đất nước bị phân chia, và
mậu dịch giữa nam và bắc được thực hiện xuyên qua các thương nhân Trung
Hoa. Trong năm 1773, phe Tây Sơn chiếm giữ Qui Nhơn. Trong năm
1775, như chúng ta đã ghi nhận trước đây, lợi dụng sự rối loạn tại miền nam,
lực lượng chúa Trịnh đã tấn công chúa Nguyễn tai Huế, buộc chúa Nguyễn phải
chạy trốn xuống Gia Định bằng đường biển, và buộc Nguyễn Nhạc phải đầu hàng ít
nhất về mặt chiến thuật và ký kết một cuộc ngưng chiến. Lực lượng chúa
Trịnh chiếm đóng Huế và Quảng Nam trong khi phe Tây Sơn cai trị Quy Nhơn.
Sau đó phe Tây Sơn đã hướng lực lượng của họ xuống phía nam, và vào năm 1778
phe Tây Sơn cai trị phần lớn miền trung và miền nam đất nước. Chính vì
thế, xứ sở đã bị phân chia bởi ba lực lượng theo miền: họ Trịnh ở miền bắc, phe
Tây Sơn tại miền trung và miền nam, và chúa Nguyễn tại miền cực nam. Sau
này, trong năm 1786, xứ sở đã bị phân chia bởi ba anh em sau khi có cuộc tấn
công của Tây Sơn vào Hà Nội. Sau khi có sự từ trần của Nguyễn Lữ, miền
nam ngày càng bị kiểm soát hơn bởi Nguyễn Ánh. 62 Ông ta
đã mở rộng lãnh thổ của mình đến phần đất của Nguyễn Nhạc và sau này đến phần
đất của Nguyễn Huệ, sẽ được hoàn tất trong năm 1802.
Tại lãnh thổ họ Trịnh, các cuộc đấu tranh phe
nhóm đã tăng mạnh khi hòa bình thịnh phát sau khi ngưng chiến với chúa
Nguyễn. 63 Khi đang có một kẻ địch bên ngoài và khi
một vị vua tương đối mạnh, các cuộc đấu tranh phe nhóm không trở thành nghiêm
trọng. Bên dưới cuộc đấu tranh phe nhóm là một tiến trình kinh tế xã hội
đi liền với sự sút giảm mau chóng đất công, bởi vì giới sở hữu đất đai tư nhân
đang cạnh tranh để gia tăng ảnh hưởng của họ tại triều đình và để hành xử sự
kiểm soát trên ngai vàng. Hơn nữa, không giống với thời trị vì của vua Lê
Thành Tông hồi cuối thế kỷ thứ 15, 64 giới tinh hoa
thư lại lên nắm quyền hành xuyên qua cuộc khảo thí tuyển dụng công chức lâu
hàng thế kỷ, bị đắm chìm và can dự sâu xa vào các các đấu tranh phe nhóm, thay
vì cân bằng quyền lực với phái quý tộc quân sự gốc Thanh Hóa, các kẻ là hạt
nhân của quân đội xuyên qua triều đại nhà Lê, được sự ưu ái của nhà vua.
Trò chơi giằng co của hai phe trong các cuộc đấu tranh kế ngôi vua đã đưa đến
sự nổi loạn không kiềm chế được của đội quân Thanh Nghệ (có nghĩa các binh sĩ
tuyển mộ từ Thanh Hóa và Nghệ An) một thời nhiều uy tín, bị xúi giục bởi một
trong các phe nhóm. Một trong các lãnh tụ của phe tranh giành chạy trốn
vào lãnh địa của Tây Sơn, và sau đó để trả thù, đã hướng dẫn quân đội Tây Sơn
ra Huế, và xa hơn đến Hà Nội trong năm 1786, tạo ra các tình trạng cho sự can
thiệp của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1788-1789.
Lực lượng Tây Sơn, bất kể sự căng thẳng trong
nội bộ của họ và sự mất tinh thần và cố kết trong thời sau này, đã tượng trưng
cho các lực lượng chính trị và xã hội hồi sinh của dân tộc Việt Nam vào lúc có
sự can thiệp của Trung Hoa. Sự lưu động xã hội và chính trị vào lúc có
biến động cho phép phe Tây Sơn huy động được các binh sĩ. Mặc dù con số
của lực lượng Tây Sơn không được hay biết, nó hẳn sẽ đông hơn lực lượng Trung
Hoa kể tử ải Trấn Nam (Zhennan), độ 4,800 quân, 65 phán
đoán theo cách mà lực lượng Tây Sơn đã giao tranh trong cuộc chiến. (Xem
Đoạn 5, Các Quan Điểm của Các Người Đưa Ra Quyết Định). Chính vì thế, cả
về mặt số lượng lẫn phẩm chất, lực lượng Tây Sơn có thể và đã áp đảo được lực
lượng can thiệp của Trung Hoa trong năm 1789.
Trong số các yếu tố xã hội tán đồng sự xuất hiện
của nhà Tây Sơn như một chất xúc tác cho các sự thay đổi xã hội triệt để gồm:
1) sự nghèo đói của giới nông dân, các kẻ bị mất căn bản đất công xuyên qua sự
tập trung đất đai vào trong tay các điền chủ và nông dân giàu có (latifundia:
các điền trang rộng lớn) và khi nền kinh tế tiền tệ tăng trưởng, và các kẻ phải
gánh chịu thuế khóa gia tăng ngay vào những lúc có nạn đói và thiên tai; 2) độc
quyền quyền lực bởi giới quý tộc quân sự từ Thanh Hóa và sự thách đố tình trạng
độc quyền từ tầng lớp thư lại phát sinh từ hệ thống khảo thí phục vụ công
quyền, và sự cộng tác với các thân hào làng xã để gia tăng sự kiểm soát trên
các khu vực địa phương tại miền nam; 3) tại miền bắc, các cuộc đấu tranh phe
nhóm dữ dội trên việc kiểm soát ngôi vua trong đó các quyền lực sở hữu đất đai
tư nhân rộng lớn, thường có các liên hệ với tầng lớp làm việc thư lại, có dinh
líu đến; và 4) sự thiếu vắng sự thống nhất của xứ sở như đòi hỏi của các thương
nhân giàu có trong nền kinh tế tiền tệ tăng trưởng. Nói cách khác, phe
Tây Sơn đã hoạt động như chất xúc tác cho sự tái sắp xếp triệt để các định chế
xã hội tiếp theo sau bước chân của sự suy tàn của đất công, các đại điền trang
gia tăng một cách mau chóng, sự tăng trưởng của nền kinh tế tiền tệ, sự nghèo
đói liên tục của giới nông dân, các cuộc đấu tranh phe nhóm liên tục dữ dội
giữa giới quý tộc quân sự, và quyền lực gia tăng của giới thư lại, và sự đắm
chìm của họ vào các cuộc đấu tranh phe nhóm. Hậu quả, một cách nghịch lý,
là sự tái sắp xếp giật lùi của hệ thống bởi sự thư lại hóa chặt chẽ theo một
kiểu Hán hóa hơn nữa. Các tiền trình kinh tế phần lớn không bị đụng chạm
bởi các tiến trình tái định chế hóa dưới triều đại mới của nhà Nguyễn, dẫn đến
tình trạng mẫn cảm của đất nước trước cuộc tấn công của thực dân vào cuối thế
kỷ thứ 19. 66
V. Các Quan Điểm Của Các
Kẻ Đưa Ra Quyết Định:
Càn Long và Nguyễn Huệ
Tiếp theo sau sự mô tả các căn bản quyền lực
nhóm, chúng tôi sẽ nêu ra các quan điểm của các nhà đưa ra quyết định then chốt
xuyên qua sự tường thuật chi tiết các biến cố. 67 Trong
khi mô tả các chuỗi biến cố, chúng tôi sẽ phô bày: 1) ảo tưởng của Càn Long về
quyền lực của vương quốc Trung Tâm, được phát hiện bởi sự vắng bóng của việc
hoạch định và chuẩn bị; và nỗi lo sợ ám ảnh của ông ta về việc đánh mất “sự ủy
nhiệm của Thiên Mệnh”, được tự thể hiện qua sự lừa dối và tự lừa dối; và 2) sự
thẩm định điềm tĩnh về quyền lực của Nguyễn Huệ, được biểu lộ cả trong chiến
trận lẫn trong sự thương nghị, và sự sử dụng và không sử dụng hợp thời các quy
luật được quy định theo truyền thống về tác phong, được biểu lộ qua sự coi
thường các ngày lễ tết và “sự khấu đầu” theo nghi lễ.
Sau cuộc
tấn công của Tây Sơn vào Huế, do họ Trịnh chiếm cứ từ năm 1775, và cuộc tấn
công sau đó của Nguyễn Huệ vào Hà Nội năm 1786, hoàng đế nhà Thanh không làm gì
được ngoài việc hay biết, một cách chậm trễ trong năm 1787, rằng điều gì đó
đang diễn ra tại Việt Nam. Tin tức mà Bắc Kinh nhận được hoàn toàn từ vua
Lê, kẻ đã xuyên tạc tình hình bằng cách tường thuật rằng phe Tây Sơn sẽ bị đàn
áp trong vòng vài tháng. Điều hy vọng rằng sự việc này sẽ giúp cho vua Lê
giành được sự tái cấp phát ấn tín với tượng lạc đà bị mất trong cơn hỗn loạn
của cuộc tấn công của Tây Sơn vào Hà Nội và sự thừa nhận vị tân quốc
vương. Sau cuộc tấn công thứ nhì của Nguyễn Huệ vào Hà Nội năm 1786,
chính quyền nhà Thanh nhận được tin tức cho hay vua Lê đã bị đuổi ra khỏi Hà
Nội và đang tìm kiếm sự can thiệp của nhà Thanh nhân danh ông ta. Trong
Tháng Năm 1788, hoàng đế Càn Long đưa ra một mệnh lệnh cho Tôn Sĩ Nghị (Sun
Shih-i), tổng đốc Quảng Đông và Quảng Tây, để trước tiên cổ vũ vua Lê tái lập
tình hình bằng nỗ lực của chính họ, trong khi chờ đợi các lực lượng Trung Hoa
tại biên giới. Nếu việc này không thành công, Tôn Sĩ Nghị nhận lệnh can
thiệp với lý do vua Lê là một vị vua Việt Nam có triều cống. Chính sách
này tự mâu thuẫn bởi một sự biểu dương lực lượng tại biên giới sẽ có khuynh
hướng khiến cho sự can thiệp trở nên tất yếu trong khi sự bất can thiệp là
chính sách có ưu tiên hàng đầu. Sau một số thư tín giữa Càn Long và Tôn
Sĩ Nghị, hoàng đế Càn Long dường như đã đưa ra một quyết định vào Tháng Tám 1788
để can thiệp, chinh yêu dựa trên tin tức của họ Tôn rằng hàng nghìn công nhân
hầm mỏ Trung Hoa tại Việt Nam sẽ hợp tác với lực lượng can thiệp của nhà Thanh
để đổi lấy gạo, 68 và rằng sự cộng tác của một cựu thần
nổi tiếng của Nguyễn Huệ được đoan chắc. Họ Tôn dường như mắc vào một ý
tưởng chủ quan, có nghĩa rằng sự can thiệp sẽ giúp cho một nhà vua triều cống
mà một cách nào khác nhất định bị sụp đổ, và từ đó mang nhà Thanh đến việc kiểm
soát Việt Nam. Thư từ giữa họ Tôn và Càn Long cho thấy họ giả định rằng
kế hoạch của họ sẽ tất nhiên đưa đến sự chiến thắng và thảo luận về các lựa
chọn chính sách thời hậu chiến thắng mà lại không nói nhiều về việc hoạch định
và chuẩn bị cho bản thân cuộc can thiệp. Trong Tháng Tám, Xu Shinheng
(Hứa Thế Hanh?) được bổ nhiệm làm tư lệnh. Trong Tháng Mười [các tháng
trong bài là tính theo âm lịch, chiếu theo các nhật kỳ bên dưới, theo suy đoán
của người dịch], bởi sự yêu cầu của chính ông, bản thân họ Tôn được lệnh chỉ
huy, cùng với họ Hứa, một lực lượng 4,800 quân từ ải Trấn Nam, và Wu Dajing [Ô
Đại Kinh], một lực lượng 5,000 quân từ Vân Nam. 69 Bất
kể sự quan tâm của Càn Long về các tuyến tiếp tế và giao thông cho một sự can
thiệp có thể kéo dài, Tôn Sĩ Nghị, bản thân lại không lo ngại về điều này gì
cả. Vào cuối Tháng Mười, họ Tôn rời ải Trấn Nam, đánh bại lực lượng Tây
Sơn mà không gặp mấy sự kháng cự, đã đến Hà Nội, và làm lễ tấn phong vua
Lê. Tin tức này đã không đến được Bắc Kinh cho mãi đến ngày 9 Tháng Mười
Hai 1788. Trước khi tin tức này về tới Bắc Kinh, Xu Chan-I, sĩ quan hải
quân của các lực lượng Quảng Đông, kẻ được gửi trở về từ Nghệ An, nơi ông ta bị
trôi giạt sau một trận bão, cho hay rằng lực lượng Tây Sơn đang thực hiện các
sự chuẩn bị kinh khiếp để phản công với các binh sĩ có tinh thần cao, và với các
vũ khí hết sức hiệu nghiệm. Tin tức này buộc có sự sửa đổi trong chính
sách của Trung Hoa. Bất kể sự khẳng quyết của Tôn Sĩ Nghị, Càn Long đã ra
lệnh cho ông ta hôm 16 Tháng Một 1789 phải triệt thoái khỏi Hà Nội, trong thực
tế bỏ rơi duyên cớ của nhà Lê. Tuy nhiên, vào ngày 25 Tháng Một 1789,
trước khi lệnh này đến được Hà Nội, và 9 ngày sau khi nó được ban bố tại Bắc
Kinh, bản báo cáo rằng lực lượng nhà Thanh chỉ huy bởi họ Hứa và họ Tôn đã hoàn
toàn bị nghiền nát bởi lực lượng Tây Sơn vào các ngày 3 đến 5 Tháng Một, 1789,
đã về tới Bắc Kinh. Chính vì thế, mục đích nguyên thủy nhằm bảo vệ vua Lê
và diệt trừ phe Tây Sơn bị đảo ngược thành một chính sách triệt thoái hấp tấp
mà không lợi lộc gì cho Trung Hoa. Điều này xảy ra không phải là do sự đề
xướng của lực lượng nhà Thanh, hay được ra lệnh bởi hoàng đế Càn Long, mà bởi
sự chiến thắng của phe Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị đã trì hoãn hành động hữu
hiệu trong một tháng sau khi chiếm giữ Hà Nội, hoặc không có phương tiện (các
binh sĩ, các phu khuân vác, thực phẩm và vũ khí) để tiến bước tấn công các lực
lượng nhà Nguyễn [Tây Sơn] xa hơn về phía nam Hà Nội (họ Tôn đang chờ đợi lực
lượng của Wu Dajing (Ô Đại Kinh) từ Vân Nam), hay không có can đảm và khả năng
để tự giải thoát khỏi việc bị cầm tù bởi các thắng lợi phù du của sự can
thiệp. Sau khi nhận được báo cáo về sự thất trận của họ Tôn, hoàng đế Càn
Long đã tức thời cử Fu Kangan (Phúc Khang An) làm tổng đốc Quảng Đông và Quảng
Tây, nhưng cho phép họ Tôn trợ giúp họ Phúc trong một thời gian trước khi bổ
nhiệm ông vào một chức vụ khác. Càn Long đã không trừng phạt Tôn Sĩ Nghị
một cách nặng nề, bởi hoàng đế Càn Long chịu trách nhiệm về việc cổ vũ cho các
tham vọng cá nhân của họ Tôn và thúc đẩy binh nghiệp của ông ta bằng việc bổ
nhiệm họ Tôn chỉ huy lực lượng quân Thanh. Họ Tôn được hay biết về khả
năng hành chính và văn chương, nhưng thiếu kinh nghiệm quân sự, khác với Phúc
Khang An. Họ Tôn trực chờ một cách khát khao một cơ hội sẽ đến với ông
ta, như được phơi bày trong sự động viên bất thường lực lượng của ông cho cuộc
nổi loạn của phe Tam Hợp tại Đài Loan năm 1786, là việc mà tổng đốc Phúc Kiến
và Chiết Giang, Phúc Khang An, chịu trách nhiệm, chứ không phải Tôn Sĩ
Nghị. Vào ngày 29 Tháng Giêng, Càn Long công bố sự giải thích hậu chiến
dịch của ông về cuộc viễn chinh, thú nhận rằng cuộc viễn chinh không nên được
toan tính ngay từ bước đầu tiên.
Các cuộc
thương nghị bắt đầu với lực lượng đáng nể sơ của Tây Sơn vẫn còn ở biên giới
Trung Hoa, đặt áp lực đáng kể lên trên các nhà thương thuyết nhà Thanh, các kẻ
chỉ có 3,000 binh sĩ đàng sau họ. Tuy nhiên, Phúc Khang An đã thực hiện
các nỗ lực tận tình, để ngăn chặn áp lực quân sự hơn nữa của Việt Nam và giữ
thể diện của hoàng đế Càn Long, cũng là để giữ địa vị cũng như cả quyền lực của
chính họ Phúc, dĩ nhiên. Họ Phúc đã báo cáo lên hoàng đế Càn Long rằng
Nguyễn Huệ đã gửi một sứ giả khẩn cầu ba lần trong một tháng để xin tấn phong
cho ông ta và bày tỏ ước muốn của ông được đến viếng thăm Bắc Kinh và xin lỗi
hoàng đế. Sự thực là họ Phúc đã nhất mực thuyết phục các thương thutyết
gia của ông Huệ, và còn cả toan tinh mua chuộc, bởi bản thân ông Huệ đã trở về
Huế để đối phó với các kẻ tranh giành quyền hành khác tại Việt Nam. Tuy
nhiên, câu chuyện được ngụy tạo bởi Phúc Khang An đã giành được nhiều hiệu lực
xuyên qua lý lẽ của tình hình. Hoàng đế Càn Long đã hài lòng hơn bình
thường bởi bản báo cáo vì sự thăm viếng cá nhân và khấu đầu chưa bao giờ được
thực hiện trước đây bởi một nhà vua Việt Nam, kẻ thay vào đó luôn luôn gửi đi
một daishen jinren [đại diện kim nhân?], một tượng bản thân
nhà vua bằng vàng để chuộc tội, đến hoàng đế Trung Hoa. Nguyễn Huệ, tiếp
nhận lời mời của Càn Long đến Bắc Kinh, là điều kiện cho sự tấn phong làm vua
Việt Nam, đã bị buộc để biến các ước muốn “thực sự” của mình cho phù hợp với sự
nhận thức của Càn Long về các ước muốn của Nguyễn Huệ, có nghĩa, đúng theo báo
cáo giả tạo của Phúc Khang An, hầu củng cố vị thế quyền lực của ông hầu đối phó
với các kẻ cạnh tranh với ông ta, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Ánh. Chính vì
thế, Nguyễn Huệ đã phái một sứ giả chính thức đến Bắc Kinh tuyên bố rằng vị sứ
giả là thân nhân của ông, có thể là không đúng. Vị sứ giả đã gặp gỡ Hoàng
đế Càn Long tại Jehol [Nhiệt Hà?] trong Tháng Bảy. Sau cuộc gặp mặt, Càn
Long đã công bố bản văn sau chiến dịch thứ nhì của ông về cuộc viễn chinh, tán
dương đức độ và quyền lực của chính mình trong việc buộc một vị vua triều cống
phát biểu ra ước muốn cá nhân được đến thăm viếng hoàng đế nhà Thanh. Ý
nghi hậu chiến dịch đầu tiên đứng dắn của ông ta hoàn toàn bị bỏ quên. Lý
thuyết của Trung Hoa về đức độ hoàng triều phổ quát ngăn cấm hoàng đế Trung Hoa
không được thú nhận các sự sai lầm của mình khi đối phó với các nước ngoài, bởi
thú nhận các lỗi lầm có nghĩa làm suy yếu đức độ đế vương của ông, điều mà tiếp
đó sẽ cung cấp lý lẽ cho người dân Trung Hoa lật đổ vị hoàng đế. 70 Sự
lập lại phương thức này (nguyên thủy nhằm cho sự tiếp thụ đối nội), sẽ trở nên
rất gần, hầu như đồng nhất với sự tự dối lòng. Sau đó, để đáp lại, vị sứ
giả của Càn Long đã khởi hành đến Hà Nội để tấn phong. Tuy nhiên vị sứ
giả được yêu cầu bởi Nguyễn Huệ nhiều lần trên đường đến Hà Nội, để thay đổi
lịch trình nguyên thủy, vì các lý do chẳng hạn như sự ốm đau của Nguyễn Huệ và
thời tiết nhiệt đới không thể chịu nổi. Sau khi bác bỏ lời yêu cầu đột nhiên
của Nguyễn Huệ để cử hành buổi lễ tại Huế thay vì Hà Nội, viên sứ giả nhà Thanh
đã đến ải Trấn Nam vào ngày 27 Tháng Tám và đến Hà Nội ngày 14 Tháng Mười.
Sứ giả đã cử hành buổi lễ hôm 15 Tháng Mười và rời Hà Nội về Bắc Kinh
trong cùng ngày. Các sự trì hoãn khó tin chuyến du hành của sứ giả và sự
đột ngột trong chuyến trở về của ông ta sau buổi lễ xem ra tăng cường cho sự
chính xác của sự phỏng đoán rằng Nguyễn Huệ thực sự cho phép giả vương đóng vai
thay cho mình tại buổi lễ. Nguyễn Huệ đã không muốn phô bày người giả vai
ông với nhân viên nhà Thanh một cách quá lộ liễu. Lần kế tiếp và là lần
cuối là cuộc thăm viếng của Nguyễn Huệ đến hoàng đế Càn Long vào mùa hè năm
1790. Trong mùa xuân 1790, dường như Nguyễn Huệ sẽ không giữ lời hứa sang
thăm Bắc Kinh. Phúc Khang An, trong sự thất vọng, hẳn phải đưa ra sự đồng
ý ngấm ngầm, nếu không phải công khai, cho sự sử dụng lần thứ nhì người đóng
giả vai, có thể cùng giả nhân được dùng trong buổi lễ tấn phong tại Hà
Nội. Sau hết, điều này có thể là kế hoạch nguyên thủy của Nguyễn Huệ từ
khi ông tiếp nhận một cách chính thức lời mời của Càn Long. Mặc dù bị
đánh lừa bởi viên tướng ưu ái của mình, Phúc Khang An, và đối thủ của ông trong
chiến tranh, Nguyễn Huệ, cùng đóng tuồng với nhau, hoàng đế Càn Long đã hoàn
toàn không hay biết gì về việc này và đã dành sự đón tiếp chưa từng có cho giả
nhân của Nguyễn Huệ suốt con đường tới Bắc Kinh. Mặc dù ông hơi hoảng sợ
một chút vì số lượng khác thường của chi phí, mong muốn của Càn Long để phô bày
đức độ của mình qua việc có một vị vua triều cống đến thăm viếng ông thì nghiêm
chỉnh, bởi theo truyền thống, sự phân phát đức độ của hoàng đế được nghĩ là phổ
biến, bất luận có phải là người Trung Hoa hay phi Trung Hoa.
Chính vì
thế toàn thể biến cố đã kết thúc với màn kịch gần như hài hước nhưng dù thế
được đóng vai nghiêm chỉnh bởi Càn Long, Phúc Khang An. Nguyễn Huệ và dĩ nhiên,
cả giả nhân của ông ta nữa. Ý niệm chế ngự này chạy xuyên qua các chính
sách của Trung Hoa có thể được nói là sự lo âu ám ảnh cho quyền chủ tể theo
nghi lễ. 71Trong năm 1792, Càn Long viết quyển Shi quan zhi
[Thập Toàn Chí?], 72 Hồ Sơ về Mười Chiến Dịch Vĩ Đại, và
có gồm cả chiến dịch đáng xấu hổ tại Việt Nam, trong đó Càn Long đã mất đi gần
hết các binh sĩ được chỉ huy bởi họ Hứa và họ Tôn, kể cả bản thân tư lệnh Hứa
Thế Hanh. Bị cầm tù bởi sự tưởng tượng của chính nó, Trung Hoa chi có thể
được cứu vãn bằng việc tự lừa đối mình một lần nữa. 73 Khi
chỉ có một kẻ thù nhỏ bé (phe Tây Sơn của Việt Nam) và khi chỉ có một cuộc nổi
loạn không có sự can thiệp của ngoại quốc (cuộc Nổi Dậy của phe Bạch Liên
giáo), các mâu thuẫn xã hội hiển thị ngày càng nhiều của đế quốc có thể được
chắp vá, dù tạm thời, mà không gây phương hại đến sự vinh quang giả tưởng của
đế quốc. Tuy nhiên, sự bảo đảm giả tạo này chỉ khuếch đại các mâu thuẫn
giữa các căn bản quyền lực thực sự của hoàng đế và các quan điểm chính trị của
ông, điều sẽ đưa đến một tai họa toàn diện khi có các cuộc nổi loạn được đi kèm
bởi sự can thiệp ngoại quốc và khi có không chỉ các kẻ thù ưu việt hơn về mặt
kỹ thuật, mà còn xâm lấn về mặt văn hóa trong thế kỷ thứ 19.
Điều chạy xuyết
suốt các quan điểm Việt Nam có thể nói là sự hiểu biết điềm tĩnh về quyền lực
và một sự sử dụng và không sử dụng hợp thời cơ các quy luật ấn định theo truyền
thống về tác phong. Trong chiến trận cũng như trong sự thương thuyết,
Nguyễn Huệ đã cư xử trên căn bản ưu việt về quân sự, dù ở tầm mức địa phương,
đối với kẻ thù. Cuộc tấn công trực diện phi truyền thống vào thời điểm
chưa từng có của ngày Tết, và sự sử dụng giả nhân của ông, tất cả đều làm bằng
cho tác phong thực tiễn và cách mạng dặc thù của ông, điều chắc chắn được lĩnh
hội tại môi trường khắc nghiệt trong chính trị cạnh tranh của Đông Nam Á lục
địa, phần lớn có bản chất bù trừ trung hòa nhau. Một cách cụ thể hơn,
được lĩnh hội từ các cuộc đấu tranh liên tục chống lại nhà Lê, chúa Nguyễn, chúa
Trịnh và các người anh em Tây Sơn khác, Nguyễn Ánh, người Xiêm La và người
Trung Hoa, cũng có hiển hiện sức lôi cuốn “nguyên mẫu dân tộc chủ nghĩa” của
Nguyễn Huệ. Trái với Nguyễn Nhạc, kẻ đúng ra hài lòng với tư thế vị vua
nổi loạn chuyên chế, địa phương hóa, Nguyễn Huệ đã có tham vọng thống nhất Việt
Nam, điều được làm bằng lần đầu tiên qua sự tranh cãi công khai của họ trong
năm 1786 về việc liệu có nên thẳng tiến ra Hà Nội hay không. Sau khi ông
đã thất bại trong việc giải quyết vấn đề biên giới, ông đã hoạch định một cuộc
tấn công tái diễn đánh nhà Thanh, vốn được chuẩn bị bằng các phương cách chẳng
hạn như kiểm kê hành chính; tuyển mộ binh sĩ một cách hữu hiệu, và việc cho
đóng thuyền lớn để chở binh sĩ và các con voi. Ông ngưỡng mộ Gengis Khan
và đã nghĩ rằng người Mông Cổ kém văn minh hơn có thể chinh phục Trung Hoa,
người Việt Nam văn minh hơn cũng có thể làm như thế. Bức thư của ông gửi
nhà Thanh, xin cưới một người con gái cho chính ông và đòi thu hồi đất cũ ở
Quảng Đông và Quảng Tây, đã chỉ bị ngăn trở không được chuyển đi [sic] bởi sự
từ trần đột ngột của chính ông. 74 Sự hấp dẫn “dân tộc chủ
nghĩa nguyên mẫu” này đã vắng bóng trong triều đại nhà Nguyễn mới, thực sự
thoái bộ, chắc chắn đã góp phần vào sự thất bại dễ dàng trước chế độ thực dân
Pháp hồi cuối thế kỷ thứ 19.
VI. Các Phương Thức Rập
Khuôn:
Một Sự Khảo Sát (16) Cuộc Xung Đột Cụ Thể
và Tiềm Năng
Giữa Trung Hoa và Việt
Nam
Để định vị các trường hợp của các năm 1788-1790
trong một khung cảnh rộng lớn hơn của toàn thể phạm vi các quan hệ Trung
Hoa-Việt Nam trong lịch sử sau khi có sự độc lập của Việt Nam khỏi ách cai trị
Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, chúng tôi đã lập bảng các trường hợp. đã
qua của các sự can thiệp và xâm lăng cụ thể, tiềm tàng, ngoại trừ các biến cố
biên giới nhỏ nhặt, cho đến và trong năm 1802.
Bảng 2 cho
chúng ta ít nhất các điều sau đây: 1) rằng Trung Hoa trong căn bản, đã khởi
xướng việc gây chiến (các trường hợp 1, 5, 6/7, 75, 9, 15;
ngoại lệ là trường hợp 3 76); 2) rằng Trung Hoa đã can thiệp
khi có sự rối loạn, hoang mang nội bộ,và/hay sự thay đổi triều đại (các trường
hợp 1, 9, 15; các ngoại lệ là các trường hợp 3,5/6/7); 3) rằng Trung Hoa đã
không can thiệp khi Trung Hoa suy yếu hay khi Trung Hoa đã có các vấn đề quan
trọng khác phải đối phó, như sự phòng thủ phương bắc, ngay dù Việt Nam đang có
sự rối loạn, hỗn loạn nội bộ và/hay sự thay đổi triều đại (các trường hợp 2, 4,
8, 10, 11); 4) rằng khi Trung Hoa bị đánh bại hay bị gián chỉ, Trung Hoa đã sử
dụng trọn vẹn các phương thức để giữ sĩ diện (các trường hợp 9, 10, 15, 16); 77 và
5) rằng Trung Hoa có khuynh hướng sử dụng một chính sách thời cơ khi Trung Hoa
có các vấn đề quan trọng khác và khi có hai hay nhiều kẻ tranh giành quyền lực
tại Việt Nam (các trường hợp 11, 12, 13, 14).
78
Người ta
không thể làm gì khác hơn là thấy sửng sờ bởi sự nhất quán trong các tập quán
của Trung Hoa. Trong hơn 800 năm, Trung Hoa đã xâm lăng Việt Nam 7 lần và
đã bị đánh bại 7 lần. Một nhà khoa học chính trị nổi tiếng gần đây có than
phiền sự giảm sút trong sự sáng suốt của con người bằng việc so sánh các tỷ lệ
của các nước khởi xướng chiến tranh mà bị đánh bại giữa thời kỳ từ 1815 đến
1910 với thời kỳ từ 1911 đến 1965. Tỷ lệ của thời kỳ kể trước là 20%
trong khi tỷ lệ của thời kỳ sau là 60%. 80 Trong trường
hợp Hoa-Việt, tỷ lệ đã là 100%!
Điều có ý
nghĩa rằng chúng ta có thể nhận thấy tất cả 5 đặc tính của các quan hệ
Trung-Việt trong lịch sử trong thời kỳ ngắn ngủi 1786-1802, tức từ lúc có cuộc
tấn công đầu tiên của Nguyễn Huệ vào Hà Nội cho đến khi Ngutyễn Ánh lên nắm
quyền hành. Trước tiên, trong năm 1788, lực lượng Trung Hoa đã khởi động
chiến tranh. Thứ nhì, đó là lúc cuộc nổi dậy của Tây Sơn lan tràn khắp
Việt Nam. Thứ ba, Trung Hoa đã không can thiệp trong cuộc tranh giành giằng
co giữa Tây Sơn và Nguyễn Anh hay khi Nguyễn Ánh lên nắm quyền hành vào năm
1802, bởi Trung Hoa đã bị đánh bại hoàn toàn trong năm 1789 và bởi Trung Hoa
đang bị quấy nhiễu từ bên ngoài bởi các hải tặc do Việt Nam đỡ đầu cũng như
trong nội địa bởi cuộc nổi dậy của phái Bạch Liên. Thứ tư, khi Trung Hoa
bị đánh bại trong năm 1789, Trung Hoa đã tuyên bố rằng nhà Tây Sơn muốn xin lỗi
và thỉnh cầu sự tấn phong. Khi Nguyễn Ánh lên nắm quyền hành năm 1802,
Trung Hoa đã chấp nhận triều đại nhà Nguyễn mới sau khi đảo ngược tên nước được
đề nghị bởi nhà lãnh đạo triều Nguyễn – bởi nếu chấp nhận y nguyên như thế sẽ
mang lại ấn tượng rằng Trung Hoa đã không có tính chất siêu việt. Thứ
năm, khi phe Tây Sơn và Nguyễn Ánh đang tranh giành với cán cân nghiêng về phía
Nguyễn Ánh, Trung Hoa đã không can thiệp nhân danh nhà cầm quyền triều cống (là
Tây Sơn trong trường hợp này), như nó đã làm hồi năm 1789 (vua Lê trong trường
hợp này). Trung Hoa đã bị cuốn hút vào sự trấn áp cuộc nổi dậy của phái
Bạch Liên giáo và các hải tặc do Việt Nam đỡ đầu. Mặc dù nhà Thanh đã quy
kết nạn hải tặc tại vùng Biển Nam Hải riêng cho nhà Tây Sơn, sự thực là cả
Nguyễn Ánh cũng tham gia vào nạn hải tặc. Ngay dù nhà Thanh có hay biết
về sự kiện này, nhà Thanh đã không muốn giao chiến với Nguyễn Ánh hay nhà Tây
Sơn. Nhà Thanh đã cố gắng trấn áp nạn hải tặc bằng vũ lực, liên kết với
các nỗ lực ngoại giao, mà không bị dính líu vào cuộc chiến tranh giữa các đối
thủ Việt Nam với nhau.
Bất kể khối
lượng khổng lồ của sự vay mượn văn hóa của Việt Nam từ Trung Hoa, 81 mối
quan hệ Trung-Việt trong lịch sử xem ra đã không cung cấp nhiều bằng chứng hậu
thuẫn cho quan điểm của J. K. Fairbank, khẳng định rằng các phương cách chính
yếu của Trung Hoa đối phó với Việt Nam trong thời nhà Thanh có “tinh chất văn
hóa” và “ý thức hệ” và quân sự “một cách ngắn ngủi và thứ yếu”. 82 Hoàn
toàn trái ngược với cảm tưởng mà sự trình bày này mang lại cho chúng ta, các
cán cân quyền lực của các diễn viên chính trị giữa và bên trong Trung Hoa lẫn
Việt Nam đã xác định phần lớn mối quan hệ của họ. Sự vô khả năng của
Trung Hoa để cai trị Việt Nam một cách trực tiếp, bất kể cảm thức kéo dài nhiều
thế kỷ rằng Việt Nam đã từng và do đó phải thuộc về Trung Hoa, đã tạo lập ra
một giải pháp thoải mái về mặt tâm lý, ít nhất đối với phía Trung Hoa, và có lẽ
“thỏa mãn” về mặt chính trị cho cả hai bên. Đó là một giải pháp thỏa
hiệp, hay thích đáng hơn, một giải pháp cực chẳng đã [faute-de-mieux,
tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa, bởi không có gì khá hơn, chú
của người dịch] 83
Bảng 2
Khảo Sát 16 Cuộc Xung
Đột Bạo Động Thực Sự và Tiềm Tàng
Giữa Trung Hoa và Việt
Nam Sau Khi Việt Nam Độc Lập 79
Trung Hoa
Việt
Nam
Can
Thiệp/Xâm Lăng
Thành Công/Thất Bại
1. Tống
phòng vệ
phía bắc Chống Khất Đan
Đinh→Lê
xáo trộn nội bộ
Có (c)* 979-981
Thất bại (c)
trong họ Đinh
2. Tống
phòng vệ
phía bắc
Lê→Lý 1000
Không
3. Tống
Vương
An Thạch
Lý chiến
tranh với Chàm
Có (c) 1076-77
Thất bại (c)
Có (v)* 1075
4. Nam Tống
phòng vệ phía bắc chống Khất Đan
Lý→Trần 1225
Không
5. Nguyên
Trần
Có (c)
1257
Thất bại (c)
6. Nguyên
Trần
Có (c)
1284-85
Thất bại (c)
7. Nguyên
Trần
Có (c)
1287-88
Thất bại (c)
8. Minh
củng cố quyền lực &
Trân→1400
Không
phòng vệ phía bắc
9. Minh
Vĩnh
Lạc
Hồ→Lê
xáo trộn nội bộ;
Có (c)
1407-27
Thành công ban đầu &
Thất bại sau rốt (c)
Lê Lợi xuất hiện từ
chiến
tranh giành độc
lập
10. Minh
phòng vệ phía bắc &
Lê→Mạc 1527.
Họ Mạc
Không
phòng vệ chống hải
tặc
được phong làm đô
thống sứ
nhà Lê ở
Thanh Hóa
11. Minh
thời suy
tàn
Mạc→Lê 1593.
Họ Mạc ở
Không
Cao Bằng
12. Nam Minh(?) chuyển hướng chiến
lược
Lê/Mạc
Không
đến vua Lê
13. Thanh
củng
cố quyền lực
Lê/Mạc
Lê: quốc vương;
Không
Mạc: đô thống sứ
ở Cao Bằng
14. Wu [Ngô Tam
Quế]
Lê/Mạc
Mạc ở Cao Bằng
Không
15. Thanh
Càn
Long
Lê→Tây
Sơn
Có (c) 1788-89
Thất
bại (c)
16. Thanh
thời
suy
tàn
Tây
Sơn→Nguyễn1802
Không
-----
* (c) chỉ Trung Hoa (China) và (v) chỉ Việt Nam.
VII. Kết Luận
Đi tìm một
hình ảnh thực tế hơn cho trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử, chúng tôi đã
khảo sát và phân tích trước tiên các sự mô tả đặc điểm của nhiều sử gia khác
nhau về (một phần) trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử, với tiêu điểm chính
trên mô hình của Fairbank. Kế đó, chúng tôi đã trình bày và phân tích sự
can thiệp của Trung Hoa vào Việt Nam và kết cuộc của nó về mặt các căn bản
quyền lực nhóm và các quan điểm của các kẻ đưa ra quyết định để minh chứng cho
lập luận của chúng tôi. Sau cùng, chúng tôi đã lập bảng liệt kê và phân
tích 16 cuộc xung đột thực sự và tiềm ẩn giữa Trung Hoa và Việt Nam sau khi có
sự độc lập của Việt Nam. Ba sự thao luyện trí thức này, bổ túc và tăng
cường cho nhau, đã dẫn dắt chúng tôi đưa ra các kết luận kể sau: 1) rằng trật
tự thế giới Đông Á trong lịch sử thì đa diện hơn mô hình phần nào tập chú vào
Trung Hoa được đề nghị bởi Faibank, và một cách cụ thể hơn, nó đã không được sắp
xếp theo ba vùng phân chia theo văn hóa/địa dư của các khu vực Trung Hoa, Nội
Á, và Ngoại Vi; 2) rằng trong trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử, sức mạnh
nói chung và sức mạnh quân sự nói riêng thì quan yếu, như trong phần lớn các
trật tự thế giới lịch sử khác, mặc dù sự hành xử quyền lực có khuynh hướng bị
hạn chế bởi sự khống chế cơ cấu “quốc tê’ của Trung Hoa và năng lực động viên
cực kỳ hạn chế của nó; và 3) rằng hạ tầng cơ sở ý thức hệ và văn hóa bị Hán hóa
thường có tính chất lừa dối cũng như tự lừa dối, đặc biệt khi Trung Hoa không
thật mạnh, mặc dù nét trội bật của nó đã dẫn dắt nhiều người đến việc tin tưởng
nơi một hình ảnh của trật tự thế giới Trung Hoa trong lịch sử được đặt căn bản
trên một nguyên khối Trung Hoa giả định, không thích đáng để làm một mô hình
của trất tự thế giới Đông Á trong lịch sử.
Ngoài các
điểm tổng quát này về trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử, chúng tôi có đưa
ra các điểm cụ thể hơn, bao gồm ít nhất các điều như sau: 1) rằng Trung Hoa đã
có một năng lực động viên cực kỳ hạn chế, và sự truyền thông và kiểm soát thư
lại hoàng triều vô hiệu năng, đặt ra các sự kiềm chế khác thường trên tác phong
của Trung Hoa trong các quan hệ ngoại giao; 2) rằng Việt Nam đã thụ hưởng năng
lực động viên cao độ nhờ ở tình trạng sôi sục của sự bộc phát có tính chất cách
mạng và dân tộc chủ nghĩa nguyên mẫu, giúp cho họ áp đảo các lực lượng can
thiệp của Trung Hoa một cách hoàn toàn ngoạn mục; 3) rằng Trung Hoa đã đắm mình
trong các ảo tưởng của mình về quyền chủ tể bao quát của Vương Quốc Trung Tâm,
tự biểu lộ trong sự vắng bóng của việc hoạch định và chuẩn bị, và đã khiến cho
nó giữ lại không gì khác hơn một quyền chủ tể có tính chất lễ nghi; và 4) rằng
Việt Nam đã có một sự lượng định điềm tĩnh về quyền lực, giúp cho nó sử dụng các
căn bản quyền lực của mình một cách hoàn toàn hữu hiệu.
Có thể đối
với một số người rằng đây là một sự phê bình quá đơn giản một cách lộ liễu đối
với mô hình của Fairbank. Thí dụ, có thể lập luận rằng sự sơ suất không
chú ý đến các tương tác hòa bình giữa Trung Hoa và các lân bang sẽ làm suy yếu
lập luận của chúng tôi giống như mô hình của Fairbank bị suy yếu bởi sự lơ là
của nó đến các khía cạnh quyền lực. Đối với sự phê bình này, chúng tôi
phải lập lại quan điểm căn bản của chúng tôi rằng mối quan hệ giữa các căn bản
quyền lực và các quan điểm phải được điều tra. Mô hình của Fairbank có
khuynh hướng chỉ quan tâm đến các quan điểm tập trung vào Trung Hoa được nuôi
dưỡng trong truyền thống mà không lưu ý nhiều đến: 1) các căn bản quyền lực Trung
Hoa; 2) các căn bản quyền lực của các lân bang; và 3) các quan điểm của các lân
bang. Trái với điều này, chúng tôi đã cố gắng để nhận thức các quan hệ
triều cống trong một khung cảnh rộng lớn hơn. Các tương tác trong thời
bình đã không bị lãng quên trong khuôn khổ của chúng tôi. Đúng hơn, chúng
đã được gộp vào trong khuôn khổ của các căn bản quyền lực và các quan điểm.
Hãy lấy một
thí dụ của các sự tương tác hòa bình giữa Trung Hoa và Việt Nam trong thế kỷ
thứ 18. Như chúng tôi đã ghi nhận trước đây trong chú thích số 48, đã có
nhu cầu của Trung Hoa về gạo của Việt Nam và nhu cầu của Việt Nam về tiền đồng
của Trung Hoa. Thí dụ này không phù hợp vào mô hình “hai yếu tố”.
Việc này chỉ đơn giản là một vấn đề của các giao dịch kinh tế “quốc tế”.
Sức đẩy đưa đến sự tương tác ít hòa bình hơn giữa chúng là sự cấm đoán của
hoàng đề Trung Hoa trên hoạt động mậu dịch Trung-Việt nhằm ngăn chặn việc đổ
dồn sang Việt Nam, vốn không đủ số cung cho cơ cấu một cách kinh niên, và do đó
rất cần thiết tiền đồng Trung Hoa. Sự cấm đoán mang lại một cách tất
nhiên sự mậu dịch trái phép và nạn hải tặc, điều kế đó chuyển biến thành sự
phản kháng chống lại hoàng đế Trung Hoa, một phần với sự trợ giúp tài chính của
phía Việt Nam. Chiếu theo các sự kiện này, xem ra an toàn để nói rằng sự
duy trì hay gián đoạn các tương tác kinh tế hòa bình đã dính dáng nhiều đến sức
mạnh hay sự yếu kém của hệ thống đế quốc và hệ thống kinh tế Trung Hoa, một
trong các căn bản quyền lực quan trọng.
Hãy lấy một
thí dụ khác từ các phái bộ triều công của Việt Nam sang Trung Hoa trong thời
nhà Thanh. Một sự xem xét bảng lập trong bài viết của Fairbank và Tang
dường như làm liên tưởng rằng các phái bộ triều cống có động lực nặng về chính
trị. Tần số của các phái bộ ngay sau khi có sự thay đổi triều đại hay
hoàng triều xem ra chứng thực cho lập luận này. Bởi vì phía Trung Hoa có
thể mang lại các tai họa tiềm tàng cho phía Việt Nam ngay dù phía Việt Nam tin
tưởng nơi sự chiến thắng tối hậu của họ, hay ít nhất không bị đánh bại, nước kể
sau đã ưa thích hơn điều có thể được gọi là mian cong fu bei, tuân
lời ngoài mặt và phản bội trong đầu, điều rõ ràng không làm bận tâm các nhà
lãnh đạo Việt Nam nhiều cho bằng đối với các nhà lãnh đạo Trung Hoa. Xem
ra an toàn để nói rằng sự tính toán phí tổn-lợi lộc dựa trên các căn bản quyền
lợi dường như có nhiều trọng lượng trong điều được gọi là các quan hệ triều
cống, mặc dù mức độ của sự gắn bó cứng ngắc vào các quan điểm của một người về
các quan hệ ngoại giao thì khác biệt một cách lớn lao từ tác nhân này đến tác
nhân kia.
Sự ưa thích
của chúng tôi về sự trong sáng, giản dị và mạnh mẽ có thể khiến cho lập luận
của chúng tôi có lẽ có tính cách chỉ trích mô hình Fairbank nhiều hơn mức cần
thiết. Tuy nhiên, điều mà chúng tôi cố gắng chỉ đơn giản nhằm cho thấy sự
sử dụng một khuôn khổ có hệ thống và đối chiếu, và cùng lúc các sự cứu xét các
căn bản quyền lực và các quan điểm, thì không thể thiếu được cho sự nghiên cứu
trật tự thế giới Đông Á, nơi mà một mô hình được giả định Trung Hoa có khuynh
hướng chế ngự đầu óc của một số học giả, thường quá mạnh mẽ. Bài viết này
không làm gì nhiều hơn một nỗ lực khiêm tốn để kiểu chính sự thiên vị này./-
___
CHU THICH
1 John K. Fairbank và Ssu-yu Teng,
"On the Qing tributary system," Harvard Journal of Asiatic
Studies, 6 (1941), trang 135 - trang 246.
2 John W. Lewis, "A review of John K. Fairbank’s,
ed. The Chinese World Order ", American Political Science Review,
63 (1969), trang 549 - trang 551.
3 Chúng tôi dùng từ ngữ “quốc tế” bởi
không có một từ ngữ này đúng hơn để chỉ các quan hệ giữa các tác nhân, vì các
tác nhân này rõ ràng không phải là các quốc gia (nations).
4 Một sự khảo sát các điều kiện cơ cấu cho
sự cân bằng của hệ thống quyền lực được thử nghiệm bởi Stanley Hoffmann,
"Balance of power," International Encyclopedia of Social
Sciences, New York, 1968, Quyển 1, trang 506 - trang 510.
5 Chúng tôi dùng thành ngữ trật tự thế
giới Đông Á Châu trong một nghĩa rộng lớn hơn trật tự thế giới của Trung
Hoa. Về thế giới quan của Trung Hoa, xem Mark Mancall, "The
persistence of tradition in Chinese foreign policy", Annals of
the American Academy of Political and Social Sciences, 349 (1963), trang 14
- trang 26; Albert Feuerwerker, "Chinese history and the foreign policy of
contemporary China," Annals of American Academy of Political and
Social Sciences, 402 (1972), trang 1 - trang 14; J. Cranmer-Byng, "The
Chinese view of their place in the world: an historical perspective," The
China Quarterly, 53 (1973), trang 62 – trang 79; và tất cả các sự đóng góp
của Fairbank trong quyển The Chinese World Order. Một cách
tổng quát, quan điểm của chúng tôi thì gần gũi với các tác giả Wang, Suzuki,
Wills và Schwartz hơn là với Fairbank và Mancall.
6 Khái niệm của chúng tôi phù hợp với
Robert A. Dahl, "Power," International Encyclopedia of Social
Sciences, New York, 1968, Quyển 12, trang 405 – trang 415. Và khái niệm của
chúng tôi về quan điểm thì gần với khái niệm được xác định bởi Harold D. Lasswell
và Abraham Kaplan, Power and Society: A Framework for Political Inquiry,
New Haven, 1950, trang 16 – trang 28.
7 Điều đó có nghĩa “thỏa đáng và đầy đủ:
satisfy and suffice”. Các mục tiêu không nhất thiết phải hoàn hảo nhất,
nhưng nó có thể “được thỏa mãn ở mức tối thiểu: satisficing." Harbert
Simon, Models of Men, New York, 1957.
8 Xem Suzuki Chusei, Chibetto o
meguru Chu-In kankei shi (Lịch Sử Các Quan Hệ Trung Hoa - Ấn Độ Liên
Quan Đến Tây Tạng), Tokyo, 1962, trang 56 – trang 57, để có sự phê bình của ông
về mô hình của Fairbank. Chúng tôi đang khai triển lập luận của chúng tôi
một cách cơ bản dựa theo lý luận của Suzuki.
9 Fairbank, "Một Khuôn Khổ Sơ Bộ: A
preliminary framework," trong sách biên tập bởi Fairbank, The
Chinese World Order, trang 13.
10 Fairbank, The United States and China,
ấn bản lần thứ ba, Cambridge, Mass., 1971, trang 137 –trang 142.
11 Fairbank, "Một Khuôn Khổ Sơ Bộ: A preliminary
framework," trang 12.
12 Fairbank, "Một Khuôn Khổ Sơ Bộ: A preliminary
framework," trang 13.
13 Xem, thí dụ, Inaba Iwakichi, Kokaikun jidai
no Man-Sen kankei (Các Quan Hệ Mãn Châu – Hàn Quốc Trong Thời
Kwanghaegun), Seoul, 1933; Inaba, "Chosen Kosocho ni okeru ryoji no Manshu
shuppei ni tsuite" (Về hai cuộc viễn chinh Mãn Châu dưới thời Hyojong), Seikyu
gakuso, 15 (1934), trang 1 - trang 26; 16 (1934), trang 47 – trang 60; Chon
Haejong, Han-Jung kwangye sa yongu (Các Nghiên Cứu Về Lịch Sử
Các Quan Hệ Hàn Quốc – Trung Hoa), Seoul, 1970; Ko Byong-ik, "Oegugin e
daehan Yijo Hangugin ui kwannyom" (các quan điểm về ngoại nhân của Yi
Koreans [?]), Paeksan Hakpo, 8 (1970), trang 230 – trang 251. Khẳng
định điều này không loại trừ vai trò văn hóa đã đóng giữ trong các quan hệ
Trung Hoa – Hàn Quốc. Một số người có thể khẳng định rằng lòng trung thành của
người Hàn Quốc đối với triền đại nhà Minh, ngay dù nó không còn bất kỳ sức mạnh
quân sự nào đễ cưỡng bách, không thể được giải thích bởi sức mạnh quân sự không
thôi. Tuy nhiên, có ít nhất hai yếu tố sẽ được cứu xét trong trường hợp
này: 1) rằng nhà Minh đã trợ giúp Hàn Quốc tống xuất các lực lượng xâm lăng của
Nhật Bản, điều mà người Hàn Quốc biết ơn, và là điều đã tăng cường tinh thầnsadae (phục
vụ nước lớn hơn) trong người dân Hàn Quốc; và 2) rằng tại Hàn Quốc, các cuộc
tranh đấu phe nhóm giữa tầng lớp yang bang (văn ban) kịch liệt
đến nỗi vấn đề các quan hệ ngoại giao đã bị sử dụng cho cuộc tranh đấu trong
nước quá thường xuyên. Như tác giả Chon đã viết một cách xác thực, các
quan hệ triều cống với Trung Hoa cùng với các điều khác đã là một sự sỉ nhục
cho người Hàn Quốc. Chính vì thế, đã có khuynh hướng khiến cho nhiều sử
gia Hàn Quốc hạ thấp khía cạnh này và thay vào đó nhấn mạnh đến các khía cạnh
văn hóa hay kinh tế của các quan hệ triều cống. (Chon, Han-Jung
kwangye sa yongu, trang 56). Khuynh hướng này cũng được tăng cường
quá thường xuyên bởi các nhà Trung Hoa học đặt Trung Hoa làm trọng tâm.
Ông Chon cũng chứng tỏ rằng các phái bộ triều cống đã là gánh nặng cho người
dân Hàn Quốc về mặt kinh tế và rằng nhà Thanh đã miễn cưỡng cho phép người Hàn
Quốc học hỏi về văn hóa Trung Hoa. (Chon, Han-Jung kwangye sa yongu,
trang 56). Tất cả các sự kiện này đúng là trái ngược với những gì mà mô hình
Fairbank trình bày với chúng ta.
14 Xem L. Petech, China and Tibet in the Farly
18th Century: History of the Establishment of Chinese Protectorate in Tibet,
Leiden, 1950; and Suzuki Chusei, Chibetto o meguru Chi-In kankei shi.
15 Fairbank, "Một Khuôn Khổ Sơ Bộ: A preliminary
framework," trang 13.
16 Một nhà sử học, nghiên cứu về các quan hệ ngoại
giao của Nhật Bản hồi cuối thế kỷ thứ 19, đã ngạc nhiên về sự đặc trưng hóa các
quan hệ ngoại giao của Trung Hoa “ đã đặt Trung Hoa làm trung tâm” quá
đáng bởi Fairbank và Teng. Marlene J. Mayo, "The Korean crisis of 1873 and
early Meiji foreign policy," Journal of Asian Studies, XXXI
(1972), trang 809.
17 Xem Fairbank, "America and China: the
mid-nineteenth century," trong sách biên tập bởi Ernest R. May và James C.
Thomson, Jr., American-East Asian Relations, Cambridge, Mass.,
1972, trang 19 -trang 33. Mặc dù khung cảnh thì khác biệt, bản thân Fairbank đã
làm điều có thể được giải thích như sự tự phê bình: Quan Điểm của Hoa Kỳ về Các
Quan Hệ Mỹ - Đông Á phải gánh chịu cùng chứng bệnh cận thị đã ảnh hưởng đến các
sự nghiên cứu của Mỹ về Trung Hoa – sự tự khen nhân danh chủ đê đó thì độc đáo,
bản thân là một đặc loại. Tư tưởng hạnh phúc này khởi sinh từ quan điểm
Trung Hoa truyền thống về Trung Hoa và lịch sử Trung Hoa -- rằng nó thì vô song
và vì thế không thể so sánh được. Cảm thức của Trung Hoa về tính chất độc
nhất trung tâm, thật ngấm ngầm biết bao và trong thực tế hiển hiện trong sử
sách Trung Hoa, đã trừ khử trên các nhà nghiên cứu Tây Phương khả năng cải đổi
lại mật hiệu đó. Bị tăng cường bởi sự quyến rũ đặc biệt và sự khó khăn
của hệ thống chữ viết tiếng Hán, cảm thức về tính chất độc đáo này đã thấm nhập
Cái Nhìn Của Tây Phương về mọi điều liên quan đến Trung Hoa, gồm cả sự tiếp xúc
của Trung Hoa với Hoa Kỳ, vốn được xem như một mối quan hệ đặc biệt” (trang
19).
18 Bởi vì trong các quan hệ quốc tế, bản thân chiến
tranh nói chung là một hiên tượng bình thường theo một nghĩa rộng của từ ngữ,
sự trích dẫn được sử dụng mang ý nghĩa rằng từ ngữ được dùng theo một nghĩa
hẹp.
19 Nhiều đặc tính tương tự có mặt trong “hệ thống
triều cống” có thể được tìm thấy, thí dụ, trong các quan hệ của Nga với các
vương quốc, thủ lĩnh và các nguyên thủ của các nước ở Bắc và Trung Á
Châu. Xem Raymond H. Fisher, The Russian Fur Trade, 1550-1700,
Berkeley, Calif., 1943; và G. V. Lantzeff, Siberia in the
Seventeenth Century, Berkeley, California, 1943.
20 Xem Bảng 5 (Table 5), Tributary Embassies
1662-1911, trong bài viết của Fairbank và Teng, "On the Qing tributary
system." Các nước Đông Nam Á được liệt kê trong Bảng là Xiêm La,
Miến Điện, Lào và Sulu.
21 Xem Bảng 5, trong sách của Fairbank và Teng,
"On the Qing tributary system." Cũng xem các sự đặc trưng hóa các
quan hệ triều cống của Trung Hoa trong sách của Immanuel C.Y. Hsu, China's
Entrance into the Family of Nations: The Diplomatic Phase, 1858-1880, Cambridge,
Mass., 1960; và Masataka Banno, China and the West, 1858-1861: The
Origins of the Tsungli Yamen, Cambridge, Mass., 1964, cũng như Fairbank, Trade
and Diplomacy on the China Coast: The Opening of the Treaty Ports, 1842-1854,
2 quyển, Cambridge, Mass., 1953. Tất cả các quyển sách này đều thảo luận về các
quan hệ của Trung Hoa với Các Nước Tây Phương hồi giữa thế kỷ thứ 19.
Dường như các nhà nghiên cứu đó khi thảo luận về các quan hệ Trung Hoa – Tây
Phương đã có khuynh hướng tuân thủ theo mô hình của Fairbank chặt chẽ hơn so
với các mô hình khác..
22 Bảng 1 (Table 1) được thiết lập qua việc tìm đọc
các tác phẩm kể sau: Fairbank và Teng, "On the Qing tributary
system," 1941; Suzuki, Chibetto o meguru Chu-In kankei shi (Lịch
Sử Các Quan Hệ Trung Hoa - Ấn Độ liên quan đến Tây Tạng, Tokyo, 1962; Suzuki,
"Kenryu annan ensei ko" (Một Nghiên Cứu Về Cuộc Viễn Chinh Sang An
Nam của Càn Long), Toyo gakusho, 50 (1967), các trang 145-167
và 307 - 334; Suzuki, "Shin-Betonamu kankeo no seiritsu" (Sự Thiết
Lập Mối Quan Hệ Nhà Thanh – Việt Nam), Aichi daigaku bungakubu ronso,
33/34 (1966), trang 343 - trang 365; Joseph F. Fletcher, "China and
Central Asia, 1368-1884," trong sách do Fairbank biên tập,The Chinese
World Order, trang 206 - trang 224 và trang 337 - trang 368; Robert H. G.
Lee, The Manchurian Frontier in Qing History, Cambridge, Mass.,
1970; Mark Mancall, Russia and China: Their Relations to 1727, Cambridge,
Mass., 1971; John E. Wills, Jr., "Qing relations with the Dutch,
1662-1690," trong sách do Fairbank biên tập,The Chinese World Order,
các trang 225 - 256 và 368 - 380; Inaba, Kokaikun jidai no Man-Sen
kankei; Inaba, "Chosen Kosocho ni okeru ryoji no Manshu shuppei ni
tsuite"; Tayama Shigeru, Shin jidai ni okeru Moko no shakai seido (Các
Định Chế Xã Hội Của Mông Cổ Dưới Thời Nhà Thanh), Tokyo, 1954; Obayashi Taryo,
"Chugoku henkyo no doshi seido ni tsuite no minzokugaku teki kosatsu"
(Các Nhận Xét Dân Tộc Học Về Hệ Thông T'u-ssu [Thổ Tù?] tại miền tây nam
Trung Hoa), Minzokugaku kenkyu, 35 (1971), trang 124 - trang 138;
Wang Gungwu, "Early Ming relations with Southeast Asia: a background
essay," trong sách do Fairbank biên tập, The Chinese World Order,
trang 34 - trang 62 và 293-299; Yu Ying-Shi, Trade and Expansion in Han
China: A Study in the Structure of Sino-Barbarian Economic Relations,
Berkley, Calif., 1967.
23 Fairbank, "[Một] khuôn khổ sơ bộ: A
preliminary framework," trang 13.
24 Nếu chúng ta dùng chữ văn hóa theo một nghĩa rộng
như được dùng trong ngành nhân chủng văn hóa học hay đơn giản hơn, trong ý
nghĩa chỉ nền văn minh, khi đó toàn thể sự phân tích về các yếu tố góc cạnh nổi
bật bị xóa mờ bởi sự khác biệt giữa văn hóa tiền tiến của Trung Hoa và văn hóa
phi Trung Hoa kém tiến bộ hơn.
25 Xem Suzuki, Chibetto o meguru Chi-In kankei
shi, trang 1- trang 71.
26 Xem Joseph F. Fletcher, "China and Central
Asia, 1368-1884," trong sách do Fairbank biên tập, The Chinese
World Order, trang 206 - trang 224 và trang 337 - trang 368.
27 Đây đích thực là luận án của Yu Ying-Shi, Trade and
Expansion in Han China.
28 Fairbank, "Một Khuôn Khổ Sơ Bộ: A preliminary
framework," trang 13.
29 Về ý nghĩa cuộc nổi dậy của Tây Sơn trong lịch sử
Việt Nam hiện đại, xem Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese
Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First
Half of the Nineteenth Century, Cambrige, Mass., 1971; Nguyễn Thanh Nhã
[?], Tableau économique du Vietnam aux XVIIe et XVIIIe siècles,
Paris, 1970, các trang 229-231; và Minh Tranh (Ming Cheng), Yuenan
shehui fazhan shi yanjiu (Các Cuộc Nghiên CứuTrong Lịch Sử về Sự Phát
Triển Xã Hội Việt Nam), Peking, 1963. Về diễn tiến biến cố, xem Suzuki,
"Kenryu annan ensei ko" (Nghiên Cứu Về Cuộc Viễn Chinh Sang An
Nam của Càn Long), Toyo gakusho, 50 (1967), trang 145 - trang 167
và trang 307 – trang 334.
30 Xem sự trình bày cô đọng về các căn nguyên của sự
phân chia bởi Qien Ching-ho, "17-18 seiki Betonamu ni okeru namboku
tairitsu no rekishi to sono bunseki" (Nghiên Cứu Về Lịch Sử Sự Phân Chia
Bắc Nam của Việt Nam Trong Các Thế Kỷ Thứ 17 Và 18), Shigaku, 38
(1965), trang 81 - trang 94.
31 Xem Fujiwara Riichiro*, "Reimatsu shi no ichi
koøsatu----Tei shi chika no seijo ni tsuite" (Nghiên Cứu Về Lịch Sử thời
hậu Lê – trên các tình trạng chính trị dưới trào họ Trịnh), Toyoshi
kenkyu, 26 (1967), trang 89 - trang 114.
32 Tại Việt Nam, nhà lãnh đạo Việt Nam tự xưng mình là
hoàng đế, trong khi đối diện với hoàng đế Trung Hoa, ông tự xưng là Vương (Vua:
King), chiều theo ý muốn của hoàng đế Trung Hoa.
33 Đây là hai sự lựa chọn căn bản cho một sự can thiệp
hạn chế. Muốn có một sự phân tích chính thức của tình trạng nghịch lý
được rút ra từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam ngày nay, xem Charles Wolf, Jr.,
"The logic of failure: A Vietnam lesson'," Journal of Conflict
Resolution, XVI (1972), 391 - 401. Cũng xem Wolf, "The present value
of the past," Journal of Political Economy, 78 (1970), trang
783-trang 792.
34 See Suzuki, "Kenryu Annan ensei Ko" để có
một sự tường thuật vững chắc nhất cuộc can thiệp của Trung Hoa tại Việt Nam
trong các năm 1788-1789 và hồi kết cuộc của nó. Chúng tôi dựa nhiều vào
cuộc nghiên cứu của Suzuki. Cuộc nghiên cứu năm 1967 của Suzuki được khích lệ
bởi bài viết của ông Trương Bửu Lâm, "Intervention versus tribute in Sino-Vietnamese
relations, 1788-1790," trong sách do Fairbank biên tập, The
Chinese World Order, các trang 165 - 179 và 321-326. Một văn bản sớm hơn
của cuộc nghiên cứu của ông Lâm đã được trình bày trong một hội nghị năm 1965,
trong đó ông Suzuki cũng là một tham dự viên. Ông Suzuki đã sử dụng cả
hai nguồn tài liệu Trung Hoa (Da-Qing lichao shilu, Ming-Qing
shiliao gengbian, Qing shi kao I-wen zhi An-nan zhi lue) lẫn
các tài liệu của Việt Nam (Đại Nam chính-biên liệt-truyện, sơ tập,Khâm
Định Việt-Sử thông giám cương-mục). Ông lệ thuộc nhiều nhất vào quyển An
Nam Chí Lược (Annan zhilue). Ông Lâm cũng sử dụng cả hai nguồn tài liệu
Trung Hoa lẫn Việt Nam. Tuy nhiên ông sử dụng thường xuyên nhất bộ Shi-lu (Thực
Lục) và bộ Qing shi kao lại không được dùng sâu rộng gì cả.
35 Xem Ch'en Ching-ho (Trần Kính Hòa), "17-18
seiki Betonamu ni okeru namboku tairitsu no rekishi to sono bunseki" đê có
một sự trình bày ngắn về sự chuẩn bị của Nguyễn Huệ nhằm khôi phục Quảng Đông
và Quảng Tây. Cũng xem Suzuki, "hin-Betonamu Kankei no seiritsu"
(Sự Thiết Lập Mối Quan Hệ Nhà Thanh – Việt Nam), Aichi daigaku
bungakubu ronso, 33/34 (1966), trang 343 - trang 365.
36 Xem Sano Manabu, Shin cho shakai shi (Lịch
Sử Xã Hội Của Nhà Thanh), 3 quyển., Tokyo, 1947; và Katsuta Hiroko, "Shin
dai kaiko no ran" (Các Cuộc Nổi Dậy Của Hải Tặc trong Thời Nhà Thanh), Shiron,
19 (1971), trang 27 – trang 50, để có một sự trình bày về các toán hải tặc
Trung Hoa được bảo trợ một phần bởi Tây Sơn dọc theo bờ biển Nam Hoa cuối thời
Càn Long và thời Gia Khánh.
37 Xem Suzuki, "Shin-Betonami Kankei no
seiritsu" để có một sự trình bày chi tiết sự thiết lập mối quan hệ chính
thức giữa tân triều đại Nhà Nguyễn và Nhà Thanh). Cũng xem Suzuki,
"Chugoku-Betonamu kankei shi no gaikan" (Khảo Sát Các Quan Hệ Trung
Hoa), Ajia Kenkyu, 16 (1969), trang 1 - trang 20.
38 Về chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương, xem John F.
Cady, The Roots of French Imperialism in Southeast Asia, Ithaca,
1954; Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and
Cambodia: Rule and Response (1859-1905), Ithaca, 1969; David G. Marr, Vietnamese
Anti-Colonialism, 1885-1925, Berkeley, Calif., 1971.
39 Xem Suzuki, Shin cho chuki shi kenkyu (Nghiên
Cứu Lịch Sử Thời Giữa Nhà Thanh), Toyohashi, 1952, để có một sự trình bày vững
chắc nhất về cuộc nổi loạn của Bạch Liên giáo, cùng các tình trạng xã hội,
chính trị, và kinh tế dẫn dắt đến cuộc nổi loạn. Cũng xem Philip A. Kuhn, Rebellion
and Its Imperial Enemies in Lete Imperial China: Militarization and Social
Structure, 1796-1864, Cambridge, Mass., 1970.
40 Xem I. Ya Zlatkin, Istoriia Zhungarskogo
Khanstva (Lịch Sử Của Dzungar Khanate), Moscow, 1964, để có sự trình
bày nhiều chi tiết nhất về sự trổi dậy và sụp đổ của Đế Quốc Dzungar.
41 Xem Suzuki, Shin cho chuki shi kenkyu,
trang 1- trang 28, để có một sự trình bày về sự biến dạng của kẻ thù truyền
thống phương bắc và các ảnh hưởng của nó trên kinh tế, xã hội và chính thể.
42 Xem John R. Watt, The District Magistrate
in Late Imperial China, Berkeley and Los Angeles, Calif., 1972, để có một
sự trình bày tuyệt hảo về sự thay đổi xã hội trong trường kỳ và các ảnh hưởng
của nó từ cuối nhà Minh cho đến giữa nhà Thanh.
43 Watt, The District Magistrate,
trang139.
44 Watt, The District Magistrate,
trang105.
45 Xem Suzuki, Shin cho chuki shi kenkyu,
về sự di dân và các ảnh hưởng của nó. Cũng xem Ping-ti Ho, Studies
on the Population of China, 1368-1953, Cambridge, Mass., 1949,
về dân số và sự di dân từ một quan điểm tổng quát hơn.
46 Xem Niida Noboru, Chugoku no ho to shakai
to rekishi ----Ikoshu (Luật Pháp, Xã Hội và Lịch Sử Trung Hoa – Các
Sưu Tập Các Tác Phẩm Xuất Bản Sau Khi Từ Trần), Tokyo, 1967, để có một sự trình
bày về cách thức thừa kế tại Trung Hoa.
47 Xem Kuhn, Rebellion and Its Imperial
Enemies in Late Imperial China, để biết về sự quân sự hóa các tổ chức địa
phương.
48 Xem Sasaki Masaya, Shin matsu no himitsu
kessha zenpen: Tenchi kai no seiritsu (Các Hội Kín Hồi Cuối Nhà Thanh,
Quyển 1: Sự Thành Lập Hội Tam Hợp (Triads), Tokyo, 1970, để có một sự trình bày
chi tiết các căn nguyên của Hội Tam Hợp. Cũng xem Sano, Shin cho shakai
shi; Jean Chesneaux, Chinese Secret Societies in the 19th and 20th
Centuries in China, N.Y., 1971; Jean Chesneaux, Feiling Davis và Nguyen
Nguyet Ho, Movements populaires et societes secretes en China aux XIXe
et XXe siècles, Paris, 1970.
49 Xem Katsura, "Shin dai kaiko no ran" để
có một sự trình bày chi tiết về các nạn hải tặc Trung Hoa trong thời kỳ
này. Về các nguyên do kinh tế tiềm ẩn của nạn hải tặc, thí dụ, nhu cầu
Trung Hoa về gạo Việt Nam và nhu cầu của Việt Nam về các kim loại Trung Hoa,
xem Suzuki, "Kenryu Annan ensei ko," chú thích số 72.
50 Xem Hoshi Ayao, Daiunga -- Chugoku no soun (Đại
Vận Hà – Sự Vận Tải Bằng Thuyền Của Trung Hoa), Tokyo, 1971, để có một sự trình
bày tổng quát về hệ thống chuyển vận của Đại Vận Hà và các phần tử phản xã hội
phát sinh từ hệ thống.
51 Xem Saeki Tomi, "Shin dai Yosei ki ni okeru
tsuka no mondai" (Vấn Đề Tiền Tệ Dưới Thời Yung-Chang nhà Thanh), Toyoshi
kenkyu, 18 (1959), trang 142 - trang 211, để có một sự trình bày về đồng
tiền bằng đồng, nạn lạm phát giá gạo, các hầm mỏ và các phần tử phản xã hội
chung quanh các hầm mỏ trong thời Yung-cheng [Ung Chính?]
52 Xem Suzuki, Shin cho shuki shi kenkyu,
và Katsuta, "Shin dai kaiko no ran" để biết về sự suy sụp tinh thần
của quân đội. Cũng xem Kuhn, Rebellion and its Imperial
Enemies in Late Imperial China.
53 Xem Richard L.K. Jung, "The Sino-Burmese war,
1766-1770: War and peace under the tributary system," Papers on
China, 24 (1971), trang 74 - trang 103, để có một sự trình bày về sự kiểm
soát và thông tin thư lại không được phối hợp.
54 Xem Harold L. Kahn, Monarchy in the
Emperor's Eyes: Images and Reality in the Q'ian-lung Reign, Cambridge,
Mass., 1971, để có một sự trình bày về không khí chính trị thời Càn Long.
55 Xem Fujiwara, "Seizanto no ran no boppatsu
jijo ni tsuite no ichi kosatsu" (Nghiên Cứu Về Các Nguyên Do Của Cuộc Nổi
Dậy Tây Sơn), Shiso 24 (1965), các trang 53 - 68, để có một sự
trình bày chi tiết về chính trị của chúa Nguyễn trong thời kỳ dẫn đến cuộc nổi
dậy của Tây Sơn. Chúng tôi dựa nhiều vào cuộc nghiên cứu này để trình bày
về chính trị của chúa Nguyễn.
56 Xem Takeda Ryoji, "Nguyen cho kakyo seido no
ichi kosatsu" (Nghiên cứu hệ thống khảo thí tuyển dụng nhân viên phục vụ
công quyền thời Chúa Nguyễn) trong Toho gakkai soritsu jugo
shunen tohogaku ronshu, Tokyo 1962, trang 166 - trang 181; Takeda,
"Annan ni okeru kakyo no kigen oyobi seiritsu" (Các Căn Nguyên và Sự
Thiết Lập Sự Khảo Thí Tuyển Dụng Nhân Viên Công Quyền tại An Nam), Shigaku,
38 (1966) , trang 41 - trang 60; và Woodside, Vietnam and the Chinese
Model.
57 Về điểm này, xem Takeda, "Betonamu ni okeru
kokka kenryoku no kozo----sha o chushin to shite mitaru" (Cơ Cấu Quyền Lực
Nhà Nước tại Việt Nam – được nhìn với sự nhấn mạnh trên Xã) trong sách do
Yamamoto Tatsuro biên tập, Tonan Ajia ni okeru kenryoku kozo no shiteki
kosatsu (Các Cuộc Điều Tra Lịch Sử về cơ cấu quyền lực tại Đông Nam
Á), Tokyo, 1969; và Sakai Yoshiaki, "Betonamu no bunka" (Văn Hóa Việt
Nam), Chikuma shobo sekai no rekishi (Bộ Sách Lịch Sử Thế Giới
Chikuma Shobo World History Series), quyển 13, các trang 219 - 233, Tokyo,
1961.
58 Về điểm này, xem Katakura Minoru, "Betonamu
zenkindai no nuhi----mibun to shite no nuhi o meguru kiso teki kosatsu"
(Chế Độ Nô Lệ trong thời tiền hiện đại của Việt Nam – điều tra căn bản về tình
trạng nô lệ như quy chế xã hội), Rekishigaku kenkyu, 256 (1970),
trang 19 – trang 40; và Wada Hironori, "Betonamu shakai no kakudai"
(Sự Bành Trướng Của Xã Hội Việt Nam), trong Iwanami koza sekai rekishi (Bộ
Sách Lịch Sử Thế Giới Iwanami World History Series), 13 (1971), trang 438 -
trang 447, Tokyo.
59 Xem Nguyễn Thanh Nhã [?], Tableau
economique du Vietnam aux XVIIe et XVIIIe et siecles, các trang 59 - 73; Lê
Thành Khôi, "Le Viet-Nam: histoire et civilization", le
milieu et l'histoire, Paris, 1955; Jean Chesneaux, Contributions a
la l'histoire de la nation vietnamienne, Paris, 1955.
60 Xem Makino Tatsumi, "Toa beisaku minzoku ni
okeru zaisan sozoku seido no hikaku" (So sánh các hệ thống thừa kế tài sản
giữa các người dân trồng lúa gạo tại Đông Á Châu), Shakaigaku hyoron,
1 (1950), trang 132 - trang 187, và Niida Noboru, "Rei shi Annan no zasan
sozoku ho to Chugoku ho" (Luật thừa kế tài sản tại Việt Nam và luật Trung
Hoa), Toyo bunka kenkyujo kiyo, V (1954), trang 209 - trang 228, để
có một sự trình bày về cách thức thừa kế tại Việt Nam và so sánh với các nước
khác tại Đông và Đông Nam Á.
61 Điều đó biểu thị giai cấp phi nông thôn mới xuất
hiện rằng trước khi họ liên can đến hoạt động thổ phỉ và nổi loạn về sau,
Nguyễn Nhạc là một nhân viên sở thuế (Fujiwara, "Seizanto no ran no
boppatsu jijo ni tsuite no ichi kozastu", và Ch'en, "17-18 seiki
Betonamu ni okeru namboku tairitsu no rekishi to sono bunseki") và Nguyễn
Huệ, em ông ta, là một diễn viên hài, tùy tùng một viên chỉ huy quân sự có
thanh thế. (Nguyễn Thanh Nhã [?], Tableau economique du Vietnam aux
XVIIe et SVIIIe siecles, trang 147.)
62 Xem Alastair Lamb, The Mandarine Road to
Old Hue: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy From the 17th Century to the
Eve of the French Conquest, London, 1970. Quyển sách này chứa đựng các nhận
xét đương thời của người Anh về chính trị Tây Sơn trong các năm 1788 và 1793.
63 Xem Fujiwara, "Reimatsu shi no ichu
Kosatsu" để có một sự trình bày chi tiết về chính trị của Chúa Trịnh mà
chúng tôi đã tham dụng nhiều .
64 Xem John K. Whitmore, The Development of Le
Government in Fifteenth Century Vietnam, luận án Tiến Sĩ, Cornell University,
1968, để có một sự trình bày chi tiết về sự thành công ngắn hạn của triều đại
nhà Lê nhằm kiềm chế quyền lực của chế độ quả đầu (oligarchy) quân sự ở Thanh
Hóa bằng việc vun trồng khéo léo ảnh hưởng giới thư lại mới phát sinh hồi cuối
thế kỷ thứ 15. Cũng xem Whitmore, "Vietnamese adaptation of Chinese
government structure in the fifteenth century, " trong sách do Edgar
Wickberg biên tập, Historical Interaction of China and Vietnam:
Institutional and Cultural Themes, The University of Kansas, 1969.
65 Suzuki, " Kenryu annan ensei ko," trang
157.
66 Xem Lê Thành Khôi, Le Viet-Nam; và
Nguyễn Thanh Nhã [?], Tableau economique du Vietnam aux XVIIe and
XVIIIe siecles.
67 Chúng tôi dựa nhiều vào Suzuki, "Kenryu Annan
ensei ko," trong phần này.
68 Xem Wada Hironori, "Shin dai no Betonamu
gin" (Bạc của Việt Nam – Miến Điện trong thời nhà Thanh), Shigaku,
33 (1961), trang 377 - trang 396.
69 Suzuki, " Kenryu annan ensei ko," khác
biệt hoàn toàn với phần lớn các tác giả khác về số quân sĩ Trung Hoa được huy
động cho chiến dịch. Suzuki rút con số từ quyển An nan zhi lue và Shi
lu. Phần lớn các tác giả khác, gồm cả Trương Bửu Lâm, "Intervention
Versus tribute in Sino-Vietnamese relations, 1788-1790" và Charles B.
Maybon,Histoire moderne du pays d'Annam, Paris, 1920, xác định số
quân là 200,000. Con số được đưa ra bởi G. Deveria, Histoire des
relations de la China avec 1'Annam-Vietnam du XVIe au XIXe siècles, Paris,
1880, thì tương tự như con số mà Suzuki đưa ra. Suzuki lấy con số 30,000
– 40,000 phu khuân vác làm số chỉ các binh sĩ. Nếu số 200,000 là số binh
sĩ, con số các phu khuân vác sẽ vào khoảng 600,000 – 800,000. Sẽ là điều
bất khả thi để có nhân số này, với dân số của các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và
Vân Nam và khả năng động viên cực kỳ hạn chế của đế quốc nhà Thanh. Ngay
cả khi con số 200,000 bao gồm các binh sĩ lẫn phu khuân vác, sẽ là điều
cực kỳ khó khăn để trưng tập 130,000 – 160,000 phu khuân vác tại các tỉnh này
mà không gây ra hiểm họa nổi loạn, bởi chiến dịch này vốn đã không được chuẩn
bị kỹ lưỡng ngay từ ban đầu. Chính vì thế, với toàn bộ tình hình của
Trung Hoa và Việt Nam hồi năm 1789, con số 12,000 thì khả tín hơn số 200,000.
70 Hoàng đế Gia Khánh từng có lần ghi nhận rằng bởi
ngay các dân man rợ cũng đã đến triều kiến ông vì đức độ của ông, quân nổi loạn
Bạch Liên Giáo, cũng vậy, nên làm như thế. Suzuki, "Kenryu-Annan ensei
ko," trang 324.
71 Chúng tôi đã vay mượn từ ngữ này từ tác giả John E.
Wills, Jr., "Ch'ing relations with the Dutch, 1662-1690," trong sách
do Fairbank biên tập, The Chinese Wourld Order. Các nguồn cội
cơ cấu-lịch sử của quyền chủ tế có tính cách nghi lễ là: 1) sự chế ngự cơ cấu
“quốc tế” của Trung Hoa trong trật tự thế giới Đông Á trong lịch sử; 2) tính
liên tục lịch sử của văn hóa Trung Hoa tiền tiến và mối quan tâm thái quá của
Trung Hoa về quyền chủ tể; và 3) khả năng huy động cực kỳ hạn chế của Trung
Hoa.
72 Xem Kahn, Monarchy in the Emperor's Eyes,
để có một sự trình bày về Shiquanzhi (trang 49).
73 Sự trình bày của Kahn làm liên tưởng cực kỳ đến bàu
không khí trong đó chính trị của vua Càn Long được thực hiện: vào cuối thời trị
vì lâu dài của mình, vua Càn Long đã học hỏi được nhiều về kiểu cách và
mục đích của chế độ quân chủ. Ông ta nói ngôn ngữ của sự tự tin đế vương
với sự trôi chảy ngay dù ở vào tuổi không còn bảo chứng cho sự tự tin như
thế. Ông đã sử dụng các định chế và các sự chế tài của sự kiểm soát quân
chủ, với một nhiệt tình được nuôi dưỡng trong nhiều năm, của sự thực hành, để
làm thấm nhuần hình ảnh về sự vĩ đại của đế triều kéo dài sau khi thực tế của
tính vĩ đại đó đã trở thành một sự kiện khả nghi. Dĩ nhiên, ông đã không
thể kiểm soát được mọi hậu quả của các hành vi của ông ta, bởi ông cũng có thể
sai lầm và thường cũng ngu xuẩn như bất kỳ con người nào và vào lúc cuối đời,
rõ ràng đã đánh mất sự kiểm soát mà ông đã toan tính một cách thật kỹ lưỡng để
kéo dài quá thời của ông. Sự kiểm soát ngai vàng của ông cuối cùng
đã trở thành một điều hoang tưởng mà ông đã không thể nhìn nhận, và hình ảnh tự
phác họa mang vẻ đế vương và các thực tế của chính trị triều đình đi theo các
con đường khác nhau. Ông đã phải hướng tới việc viết sử ký, nhấn mạnh đến
một sự vĩ đại không còn có ý nghĩa trong thực tế. (Kahn, Monarchy in the
Emperor's Eyes, trang 5)
74 Xem Chen, "17-18 seiki Betonamu ni okeru
nambokutairitsu no rekishi to sono bunseki" để có một sự trình bày về các
quan điểm của Nguyễn Huệ.
75 Bảng 2 (Table 2) được lập xuyên qua sự tìm đọc đối
chiếu các tác phẩm kể sau: Jean Chesneaux, Contributions à la
l'histoire de la nation vietnamienne; Fujiwara, "Betonamu no sho ocho
no hensen" (Lịch Sử Triều Đại của Việt Nam) trong Iwanami koza sekai
rekishi ( bộ sách Lịch Sử Thế Giới Iwanami World History Series), 12
(1971), trang 445 - trang 480; Lê Thành Khôi, Le Viet-Nam;
Matsumoto Nobuhiro, Betonamu minzoku sho shi (Lược Sử Việt
Nam), Tokyo, 1971; Suzuki "Shin-Betonamu kankei no seiritsu," 1966;
Suzuki, "Kenryu Annan ensei ko," 1967; Suzuki, "Chugoku-Betonamu
kankei shi no gaikan," 1969; Osawa Kazuo, "16-17 seiki ni okeru
Chugoku Betonamu koshoshi ni kansuru kenkyu" (Nghiên Cứu Các Quan Hệ Trung
Hoa – Việt Nam Trong Các Thế Kỷ Thứ 16 và 17), Shigaku, 38 (1965),
trang 45 - trang 71; 38 (1965), trang 51 - trang 80; and 39 (1966), trang 57 -
trang 85; Osawa, "Min matsu ni okeru Chugoku Etsunan kankei no suii"
(Các Quan Hệ Trung Hoa – Việt Nam Cuối Thời Nhà Minh), Yokohama shodai
ronshu, 4 (1971), trang 22 - trang 49; Yamamoto Tatsuro, "Annan ga
dokuritsu koku o keisei shita katei no kenkyu" (Nghiên Cứu Tiến Trình Dẫn
Đến Sự Độc Lập Của An Nam), Toyo bunka kenkyujo kiyo, 1 (1943),
trang 57 - trang 146; Yamamoto, Annan shi kenkyu (Nghiên Cứu
Lịch Sử An Nam), Tokyo, 1950. Về thời kỳ tiền độc lập, xem Li Cheng-fu, Chun-Hsien
Rule, Chungking, 1945; Lu Shi-peng, Beishu shiqi de Yuenan-Zhong
Yue Guanxi shi chi I (Việt Nam Trong Thời Cai Trị Của Trung Hoa – Lịch
Sử Các Quan Hệ Trung Hoa – Việt Nam, Quyển 1), Hong Kong, 1964.
76 Có lẽ các trường hợp 5, 6 và 7 nên được xem là cách
biệt với nhau, bởi người Mông Cổ có các quan điểm khác biệt với người Trung
Hoa.
77 Nhà Lý đã thực hiện một cuộc tấn công ngăn chặn nhà
Tống, kẻ kế đó mở cuộc phản công đánh nhà Lý.
78 Nhà Minh đã chấp nhận kẻ đóng vai vua Trần được sử
dụng bởi Lê Quí Ly, người không lâu sau đó đã nắm quyền kiểm soát hoàn toàn xứ
sở -- trường hợp 9; nhà Minh đã chấp nhận nhà Mạc làm đô thống sứ [du
tong shi trong nguyên bản, chú của người dịch] thay vì quốc vương sau
khi đã thất bại để can thiệp – trường hợp 10; nhà Thanh đã chấp nhận Tây Sơn
sau khi thất trận, tuyên bố rằng Tây Sơn đã xin tha lỗi và yêu cầu được tấn
phong – trường hợp 15; nhà Thanh đã chấp nhận nhà Nguyễn, sau khi đã đảo ngược
tên nước được đề nghị bởi nhà lãnh đạo triều Nguyễn, từ Nam Việt, vốn có âm
điệu đáng ngại cho người Trung Hoa, thành Việt Nam – trường hợp 16.
79 Nhà Minh, nhà Nam Minh, Nhà Thanh ban sơ và Ngô Tam
Quế, tất cả đều đã bảo vệ hay ít nhất không bỏ rơi nhà Mạc địa phương tại Cao
Bằng đối diện với triều đại nhà Lê ở Hà Nội. Ngoài ra, Cao Bằng về mặt
địa dư, có vị trí rất tốt để chống lại cuộc tấn công từ bên ngoài.
80 Karl W. Deutsch, "The contributions of
experiments within the framework of political theory," trong sách đồng
biên tập bởi J.A Laponce và Paul Smoker, Experiments and
Simulation in Political Science, Toronto, 1972, trang 19 - trang 35.
81 Về nhiều sự khác biệt bị lãng quên trước đây, xem
một sự trình bày đối chiếu tuyệt hảo bởi tác giả Woodside, trong quyển Vietnam
and the Chinese Model.
82 Fairbank, "Một Khuôn Khổ Sơ Bộ: A preliminary
framework," trang 13
Cảm Tạ
Tôi xin cảm tạ các ý kiến, phê bình và/hay đề nghị được đưa ra
trên một phiên bản trước đây của bài viết này từ các ông Lusian W. Pye, Vincenr
Wei-cheng Wang, Brantly Womack và Alexander B. Woodside. Tôi đặc biệt cám ơn
ông Alexander B. Woodside. Dĩ nhiên, không ai trong các vị trên chịu trách
nhiệm gì về các quan điểm được phát biểu trong bài viết này.
_____
Nguồn: Takashi Inoguchi, China’s Intervention in
Vietnam and Its Aftermath (1786-1802): A Re-examination of the Historical East
Asian World Order, Journal of Institute of International Relations, English
Series No. 52, Japan, các trang 361-403.