Đọc sách "Các tộc người giữa Tây Giang và Nhị Hà" của Catherine Churchman

Chuyên khảo của Churchman tập trung vào các vùng núi giữa hai khu vực đồng bằng châu thổ Sông Hồng và châu thổ Châu Giang trong giai đoạn từ khoảng cuối triều Hán cho đến thời cai trị của nhà Đường... (Liam Kelley)


Tác giả: Liam Christopher Kelley

Năm 1976, Edward Schafer công bố cuốn sách về “Phương Nam” trong hình dung của Trung Hoa thời trung đại với tựa đề “Chu Tước: Những Ý niệm của Nhà Đường về Phương Nam”. Chứa đựng nhiều chi tiết lý thú về vạn vật từ cây cỏ đến con người, công trình của Schafer minh chứng cho sự bao la và giàu có thông tin của thư tịch cổ Trung Quốc về vùng đất mà nay là các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, cũng như khu vực phía bắc và một phần Bắc Trung Bộ Việt Nam, trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Tây lịch.
Tuy vậy, nếu tập trung vào khía cạnh người Trung Hoa đã quan niệm như thế nào về vùng đất phía nam, thì cuốn “Chu Tước” đồng thời lại không phải công trình lý tưởng để kiếm tìm một cái cảm giác về những gì đã thực sự diễn ra ở vùng đất đó trong suốt quãng thời gian nghiên cứu. Đây là khoảng trống mà công trình năm 1983 của Keith Taylor, “Việt Nam khai quốc”, đã bù lấp một phần, khi cuốn sách này đã cung cấp một tường thuật chi tiết về lịch sử của Đồng bằng Sông Hồng, một phần của không gian nghiên cứu rộng lớn hơn mà cuốn “Chu Tước” bao quát, từ những thời kỳ sớm nhất suốt cho đến giai đoạn Thuộc Đường.
Một đóng góp quan trọng khác nhằm phác dựng một bức họa về lịch sử sớm của vùng đất Phương Nam này xuất hiện vào năm 1997, khi Charles Holcombe xuất bản một bài nghiên cứu với tựa đề “Xa về phía Nam Đế chế Cổ Trung Hoa: Những vùng đất Việt dưới thời Đường” (Tạp chí Nghiên cứu thời Đường, số 15-16 [1997-1998], tr. 125-157).
Cái mà Holcombe thực chất thảo luận trong bài viết này là ở thiên niên kỷ I SCN, Hà Nội [nên hiểu là Châu thổ Bắc Bộ Việt Nam, với trung tâm là Tống Bình - Đại La] và Quảng Châu [vùng Hạ lưu Sông Tây, khu vực Quảng Đông, với Guangzhou/Canton/Quảng Châu là trung tâm - ĐTTL] dường như đã là hai ốc đảo Hán hóa, chia sẻ với nhau nhiều điểm tương đồng, hơn là với các khu vực khác kề cận. Holcombe cũng tranh luận rằng trong suốt giai đoạn này, thương mại đã tập trung hơn tại Quảng Châu [tức là hơn so với các thời Hán - Tùy và Đường Sơ trước đó, nhưng điểm này thì lại hơi khác so với kết luận của Wang Wungwu 1958 trong “Nanhai Trade” - ĐTTL] và điều đó đã làm cho khu vực Đồng bằng Sông Hồng trở thành vùng ngoại biên của thế giới Trung Hoa trong thời gian trị vì của nhà Đường.
Điều hữu ích không kém là từ 3 nghiên cứu này đã đặt ra vấn đề phải tìm hiểu những khía cạnh khác nhau về lịch sử sớm của khu vực trải dài từ Trung Bộ Việt Nam hiện đại đến tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, để thực sự đạt được một hiểu biết vững chắc về lịch sử của khu vực này, và điều đó đòi hỏi một công trình tổng hợp dày dặn, có thể đặt nghiên cứu chi tiết của Taylor về Đồng bằng Sông Hồng trong bối cảnh rộng lớn hơn, cộng với bổ sung những tri thức tỉ mỉ tương xứng về lịch sử vùng Quảng Đông và Quảng Tây đương thời; một công trình sẽ khảo cứu về vùng đất ở giữa Hà Nội và Quảng Châu - cái mà Holcombe đã không thảo luận; và một công trình sẽ khám phá cái cách mà các sản vật tự nhiên phong phú được khảo cứu trong cuốn của Schafer đã gắn kết như thế nào với diễn tiến lịch sử của vùng đất này.
May mắn cho tất cả chúng ta, những ai quan tâm đến lịch sử sớm của vùng đất đó, một công trình tổng thể như vậy vừa được hoàn thành. Đó là cuốn “Các Tộc người giữa Tây Giang và Nhị Hà: Sự Trỗi dậy và Lụi tàn của một nền Văn hóa Trống đồng từ thế kỷ III đến giữa thế kỷ VIII sau Công nguyên” (Rowman & Littlefield, 2016).
Chuyên khảo của Churchman tập trung vào các vùng núi giữa hai khu vực đồng bằng châu thổ Sông Hồng và châu thổ Châu Giang trong giai đoạn từ khoảng cuối triều Hán cho đến thời cai trị của nhà Đường.
Nhóm người sinh sống ở vùng đất này được các học giả Trung Hoa cổ đại gọi là các dân tộc “Lí” () và “Lão” [hay “Liêu”] (), hoặc chung chung hơn là “rợ”, là “man” hoặc “di”. Thực chất, nói khác đi, các cộng đồng này khác biệt lớn so với các nhóm dân tộc ở lưu vực Hoàng Hà, và không dấu hiệu khác biệt nào rõ hơn là các di vật trống đồng loại Heger II được người Lí - Lão đúc từ khoảng thế kỷ II-III cho đến quãng thế kỷ VIII SCN, thời điểm mà các xã hội tách biệt của họ cuối cùng cũng bị sáp nhập vào đại vương quốc nhà Đường
Churchman chứng minh bằng tư liệu một lịch sử của sự trỗi dậy cũng như lụi tàn của các chính thể Lí và Lão trong suốt giai đoạn này, và trong quá trình đó, tác giả cuối cùng cũng viết lại được lịch sử của một vùng rộng lớn hơn, đặc biệt là lớn hơn cái không gian thường được các sử gia Việt Nam hiện đại miêu tả.
Vậy thì lịch sử đó là gì? Để tối giản kết quả nghiên cứu giàu tư liệu và chi tiết của Churchman, tôi có thể tóm lược nó như sau:
Các vương triều Tần và Hán đã bành trướng thế lực của mình về phía nam cho đến đồng bằng Châu Giang và châu thổ Sông Hồng [Nhà Hán xuống đến đất Lạc Việt (Bắc và một phần Bắc Trung Bộ Việt Nam), nhà Tần xuống Lưỡng Quảng, nhưng quân đội Tần có đi xa hơn Quảng Tây hay không thì chưa thể khẳng định được - ĐTTL]. Trong quá trình đó, các triều đại này đã bỏ qua một vùng thượng du khá lớn ở giữa hai lưu vực sông, và sau khi nhà Hán sụp đổ, không một vương triều nào đủ mạnh để có thể kiểm soát trực tiếp vùng đất đó, cho đến thời Đường.
Dẫu thế, điều này không có nghĩa là vùng đất giữa hai con sông vẫn còn bị cô lập. Thay vào đó, những gì Churchman chứng minh cho thấy, trong khu vực này, cũng trong khoảng thời gian ấy, đã tồn tại những xã hội, mà những chính thể này lại ngày càng trở nên hùng mạnh thông qua tương tác với các nhà nước Hán tộc khác nhau. Cụ thể, bằng việc chấp nhận các danh hiệu danh nghĩa do các vương triều Trung Hoa sắc phong, các thủ lĩnh địa phương đã đạt được đặc quyền thương mại mà thông qua đó, họ có trong tay của cải và nguồn lực để có thể mở rộng lãnh địa của mình.
Trong khi vùng đất này kết cục thì cũng đã bị sáp nhập vào đế chế Trung Hoa, bằng các cuộc xâm chiếm bình định cũng như quá trình bành trướng chính trị lâu dài, thì trọng tâm của Churchman là khảo cứu một sự phát triển rất khác diễn ra trước cái kết cuối cùng ấy. Đó là sự nổi lên và mở rộng của các xã hội người Lí và người Lão .
Trong khi đó là ý tưởng xuyên suốt của câu chuyện lịch sử bao quát mà Churchman thể hiện, thì vẫn còn nhiều vấn đề khác mà tác giả đề cập đến cũng làm giàu thêm tri thức của chúng ta về lịch sử của không chỉ vùng đất giữa hai sông mà còn về lịch sử của chính hai vùng trung tâm là Đồng bằng Châu Giang và Châu thổ Sông Hồng.
Đầu tiên và trên hết, tác giả đã dụng công tuyệt vời trong việc lý giải xem chúng ta nên hiểu các khái niệm như “Lí” và “Lão” như thế nào. Trong khi nhiều học giả nhìn nhận các tên này như là các nhóm được định danh về tộc người và ngôn ngữ, Churchman chứng minh rằng chúng như là chỉ dấu cho sự liên tục được công nhận về chính trị. (Cuốn sách gần đây về Việt tộc của Erica Fox Brindley cũng giải quyết vấn đề theo cách tương tự đối với khái niệm “Việt” (Yue) ).
Nói một cách dễ hiểu về thảo luận khá phức tạp của Churchman, có thể nôm na là: những cộng đồng sống ngoài cái thế giới của sự cai trị Trung Hoa thì là “Lão”, còn những nhóm người bị cuốn hoàn toàn vào cái thế giới cai quản đó mới là “Người” (Tiếng Trung là “Ren”, tiếng Việt là “Nhân”), và các tù trưởng địa phương những ai chấp nhận chức danh do chính quyền Trung Quốc sắc phong thì là “Lí”.
Một lần nữa, đây là sự đơn giản hóa thảo luận của Churchman về vấn đề này, nhưng điểm quan trọng là sự phân biệt giữa “Lí” và “Ren/Nhân/Người” là không rạch ròi khi những dân tộc bản địa tham dự vào hệ thống chính quyền Trung Hoa lại cư trú ở những không gian cũng không rõ ràng. Và để chứng minh cho điều đó, Churchman đã đưa ra một số ví dụ xác đáng cho thấy việc cùng một nhân vật mà các tài liệu khác nhau lại nhắc đến với các vai trò cũng khác nhau, từ “Lí” cho đến “Man tù trưởng”, đến “Người”, đến một chức danh mà chính quyền Trung Quốc gần địa phương đó đã phong tặng cho ông ta.
Bổ sung cho sự nhập nhằng này là việc cách thức cai trị của chính quyền đô hộ Phương Bắc đối với vùng đất Phương Nam thực tế cũng thay đổi theo thời gian. Cụ thể, theo cách thức của giai đoạn Hán thuộc, nhiều quan chức Trung Hoa thực chất đã trở thành những quý tộc thế tập địa phương, trong khi khá nhiều nước trong thời kỳ Lục triều (giữa Hán và Đường) lại vừa không có nguồn lực vừa tồn tại quá ngắn ngủi để có thể phái người đi quản lãnh vùng đất Phương Nam này. Và kết quả là các tiểu quốc Hán tộc đã chọn cách đơn giản là chuẩn y, duy trì chức phận của các nhân vật đã nắm giữ khu vực này từ trước đó. [Như một số trường hợp ở Giao Châu như Sĩ Nhiếp từ Hán qua Ngô; Đào Hoàng từ Ngô qua Tấn… - ĐTTL]
Như vậy, ở một chừng mực, đã không hề có khác biệt lớn giữa các quan trấn trị thế tập người Hán ở Phương Nam với những thủ lĩnh cha truyền con nối người Lí, mà thủ lĩnh Lí đã thay mặt chính quyền Hán tộc cai quản cả một vùng núi non rộng lớn. Tuy vậy, ở một cấp độ khác, thực tiễn việc các thủ lĩnh Lí đó vẫn tiếp tục đúc trống đồng, dấu hiệu của quyền lực chính trị và tính chính thống của họ, lại là một chỉ dẫn cho thấy những khác biệt thực chất đã tồn tại.
Xu hướng cai trị bằng các quan chức thế tập cuối cùng cũng chấm dứt ở châu thổ Châu Giang khi các nhà nước Hán tộc, như là triều Lương (502-587) chẳng hạn, đã cử người của mình, là quan chức hoặc thành viên hoàng gia, đi tiếp quản các chức vụ trấn trị khu vực đó. Tuy nhiên, ở Đồng bằng Sông Hồng thì xu hướng cũ vẫn tiếp diễn.
Cho dù lịch sử khu vực Đồng bằng Sông Hồng không phải là trọng tâm trong chuyên khảo của Churchman, tác giả vẫn đưa đến khá nhiều điểm quan trọng về lịch sử vùng đất đó, và khi xâu chuỗi các luận điểm đó lại ta có thể thấy đầy đủ một cách nhìn khác về lịch sử vùng đất, khá thách thức với cách tường thuật của các nhà sử học Việt Nam trong thế kỷ XX, cũng như với những gì được trình diễn trong công trình “Việt Nam khai quốc” của Keith Taylor năm 1983.
Câu chuyện lịch sử mà sử gia Việt Nam hiện đại và Taylor thời điểm 1983 chủ trương là, đã có một xã hội, văn hóa và ngôn ngữ riêng, rõ rệt ở Đồng bằng Sông Hồng trước khi các đế chế Tần và sau đó là Hán bành trướng xuống khu vực này, và rằng trong cả nghìn năm, hậu duệ của xã hội đó, của nền văn hóa - ngôn ngữ đó, đã kháng cự lại sự cai trị của người Trung Quốc, và cuối cùng cũng giành lại được “nền độc lập” của mình.
Cuốn “Một Lịch sử của người Việt Nam” gần đây của Taylor (2013) lại đưa đến một nhận thức rất khác về lịch sử thời đoạn này, bằng lập luận cho rằng dân tộc mà ngày nay chúng ta cho là “người Việt Nam”, qua vô vàn cách khác nhau, chính là sản phẩm của 1000 năm gắn kết vào các đế chế Phương Bắc. Churchman không bàn về vấn đề biến đổi văn hóa xã hội ở Đồng bằng Sông Hồng đó, nhưng bằng việc thảo luận về khu vực này cùng với khu vực Châu thổ Sông Châu và vùng đất kẹp giữa Nhị Hà và Tây Giang, tác giả đã làm rõ rằng những gì xảy ra ở Châu thổ Bắc Bộ Việt Nam không phù hợp với cái đặc tính của một vùng “đầy kháng cự” như vốn đã và đang được khái quát.
Trong thực tế, Churchman minh chứng khá rõ rằng cái câu chuyện duy trì sự khác biệt văn hóa và chống đối lại chính quyền đô hộ Trung Hoa lại phù hợp hơn cho những vùng đất ở giữa Sông Hồng và Sông Châu, hơn là áp cho khu vực Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Cho dù sự riêng biệt về văn hóa và xã hội có thể đã tồn tại ở Châu thổ Sông Hồng đi chăng nữa, thì cái bản sắc đó cũng kết thúc khá đột ngột như việc ngừng đúc trống đồng Đông Sơn và khi khu vực này đã trở nên tương đối yên ổn sau khi Mã Viện đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào thế kỷ I SCN.
Ngược lại, vài thế kỷ tiếp theo, một thế giới văn hóa trống đồng vẫn tiếp tục ngự trị tại các vùng thượng du phía bắc của Châu thổ Sông Hồng, mà các tộc người Lí và Lão đã chứng tỏ bản tính bất trị của mình đậm nét hơn các cộng đồng kề cận ở phía nam.
Cuối cùng, Churchman đã làm rõ rằng, cho đến thời Đường, Đồng bằng Sông Hồng đã trở nên xa cách và được đặt ra ngoài rìa mối quan tâm của các vương triều Trung Quốc. Cải tiến trong kỹ thuật đóng tàu đã tạo điều kiện cho các tàu thuyền viễn dương có thể tiếp cận trực tiếp Quảng Châu thay vì bám sát đường duyên hải [Bắc Việt Nam và Đông Nam Trung Quốc - ĐTTL] và dừng chân tại Vịnh Bắc Bộ như đã làm trong suốt thời Hán trước đó.
Hơn nữa, vì chẳng nỗ lực thay thế các quan chức Trung Quốc thế tập tại vùng này, không giống như những gì diễn ra ở Châu Giang, nên “nền độc lập” của Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam vào thế kỷ X có thể được nhìn nhận chân xác hơn, là kết quả của sự phớt lờ từ Đế chế Phương Bắc, hơn là sự biểu hiện của một ý chí chung.
Trong khi cá nhân tôi thấy là việc mô tả thời kỳ Bắc thuộc của Đồng bằng Sông Hồng như vậy là đúng đắn, và trong khi khảo cứu chi tiết của Churchman về sự nổi lên và tàn lụi của các vương quốc trống đồng trong vùng đất giữa hai sông là khá rõ ràng và thuyết phục, một câu hỏi rõ ràng và cốt yếu vẫn còn đặt ra cho chúng ta. Đó là: thế thì những gì đã xảy đến với vương quốc hoặc các vương quốc trống đồng trước đó của Châu thổ Bắc Bộ?
Cuốn sách mới xuất bản của nhà khảo cổ học Nam C. Kim về thành cổ Cổ Loa (“Nguồn gốc Việt Nam Cổ đại”, Nxb. Đại học Oxford, 2015) đã làm rõ rằng có một vương quốc hùng mạnh ở Đồng bằng Sông Hồng vào thiên niên kỷ I TCN. Churchman thì chia sẻ với tôi qua email rằng cô ý nghĩ là việc kiểm soát một nhà nước rộng lớn ở đồng bằng châu thổ, sau khi loại bỏ hoặc chinh phục các thủ lĩnh cai trị nó, có thể đã dễ dàng hơn việc cố gắng bình định đông đảo các chính thể ở vùng núi.
Thực vậy, đây là khía cạnh trung tâm trong lập luận của Churchman về các tiểu quốc trống đồng trong vùng đất giữa hai sông đó - bởi vì những vương quốc này trở nên rộng lớn hơn, rồi liên kết chặt hơn với các đế chế Trung Hoa, chúng thực chất đã trở nên dễ chinh phục hơn và sáp nhập hoàn toàn vào đế chế một khi đế chế Trung Quốc có đủ tiềm lực quân sự cho việc đó.
Điều này lại nhắc tôi nhớ đến một đoạn tư liệu nổi tiếng của Lịch Đạo Nguyên trong sách “Thủy kinh chú” vào thế kỷ VI SCN, trong đó, tác giả trích dẫn thư tịch sớm hơn là “Giao Châu ngoại vực ký” viết về Đồng bằng Sông Hồng. Đoạn tư liệu đó viết:
“Giao Chỉ ngày xưa, lúc chưa có quận huyện, vùng đất này đã có ruộng Lạc. Ruộng này theo sự lên xuống của nước lũ, dân khai khẩn ruộng này để trồng cấy, vì thế được gọi dân Lạc. Đặt ra Lạc vương và Lạc hầu để trông coi các quận huyện. Ở nhiều huyện có Lạc tướng. Lạc tướng có ấn đồng [treo trên] dải xanh”.
Trong thời gian dài, tôi đã cố gắng hiểu được đoạn thông điệp này, bởi nó ngụ ý mô tả về vùng đất này trước khi nó được đặt “quận và huyện”, tức là “trước khi vùng đất này được đặt dưới sự cai trị của ‘Trung Quốc’’”, và tiếp sau, đoạn văn viết về những người kiểm soát các huyện và rằng họ có được các công cụ biểu tượng cho nền cai trị “Trung Quốc” đó - là ấn đồng và dải xanh.
Nếu đây là sự thực về thời kỳ trước khi Tần - Hán cố kiểm soát vùng này, vậy thì tại sao các thủ lĩnh bản địa lại không có trống đồng nhỉ?
Trong khi Churchman không tranh luận về điểu này trong cuốn sách của cô ấy, thì bằng thảo luận về các vương quốc trống đồng ở giữa hai con sông lớn đó, tác giả lại chỉ ra rằng một trong những hình thức cai trị gián tiếp của Trung Hoa đối với vùng đất là việc thiết lập cái mà Churchman gọi là “các tả huyện” (zuoxian 左縣), hoặc cũng có thể gọi là “các huyện phụ quách” (subsidiary districts).
Đã có những huyện thực tế được đặt dưới sự kiểm soát của các thủ lĩnh địa phương (người Lí hoặc Lão), nhưng về danh nghĩa được công nhận bởi người cầm quyền Hán tộc từ một huyện được thiết lập chính thống ở gần bên.
Vậy thì bằng cách nào mà những kẻ thống trị Trung Quốc có thể biểu thị việc đang công nhận một thế lực địa phương là huyện phụ trợ của hắn? :PBằng việc ban cho thủ lĩnh bản địa đó một ấn đồng treo trên dải băng xanh (hoặc nói chung là một cái ấn và một dải khăn).
Nói cách khác, tư liệu sớm nhất mà chúng ta có được về Đồng bằng Sông Hồng xem ra không phải là về thời kỳ trước khi vùng đấy được đặt dưới sự cai trị của Phương Bắc mà là về thời gian trước khi khu vực này trở thành địa hạt cai quản “hoàn toàn” hoặc “trực tiếp” của Trung Hoa.
Như Churchman lý giải trong sách của mình, trong suốt nửa sau triều Hán, những nỗ lực [thiết lập cai trị trực tiếp] đó được giới cầm quyền nhà Hán tiến hành, và tác giả cho rằng khởi nghĩa Hai Bà Trưng có thể đã là một phản ứng chống lại những tham vọng cải biến từ cai trị gián tiếp sang cai trị trực tiếp đó.
Cuộc nổi dậy cuối cùng tất bị đàn áp, và từ thời điểm đó trở đi không mấy bằng chứng cho thấy sự hiện diện của thế giới các vương quốc trống đồng, của các thủ lĩnh trống đồng hoặc nền văn hóa trống đồng ở Châu thổ Bắc Bộ Việt Nam. Thay vào đó, vùng đất ở giữa Sông Hồng và Sông Châu lại chính là nơi thế giới trống đồng ấy được tiếp diễn và triển nở, như Churchman đã khéo léo chứng minh.
Kết luận lại, tôi có thể viết nhiều hơn về cuốn sách này, cũng như về những ý tưởng được truyền cảm hứng từ cuốn sách, đủ để nói lên rằng nhận thức của chúng ta về lịch sử giai đoạn sớm của khu vực trải dài từ Trung Bộ Việt Nam ngày nay đến các tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc đã tiến được một bước xa nhờ công trình của Catherine Churchman.
“Các Tộc người giữa Tây Giang và Nhị Hà: Sự Trỗi dậy và Lụi tàn của một nền Văn hóa Trống đồng từ thế kỷ III đến giữa thế kỷ VIII sau Công nguyên” là một tác phẩm lớn, uyên bác và sâu sắc, đã cung cấp khung phân tích tổng thể sáng rõ cho một giai đoạn mấy thế kỷ của lịch sử khu vực, cũng như những thảo luận sắc nét về rất nhiều các vấn đề cơ bản, tảng nền, từ giải quyết vấn đề các khái niệm “Hán hóa” và “Sắc tộc” đến việc phác dựng các mô hình thương mại giữa Đồng bằng Sông Hồng với Nam Trung Quốc. Đó thực sự là một kiệt tác.

PS: Catherine Churchman, với bút danh Michael Churchman được biết đến trong giới học thuật Việt Nam bằng một chương trong cuốn Vịnh Bắc Bộ (2011), cũng như bài nghiên cứu có thể tiếp cận trên weblink: https://chl-old.anu.edu.au/sites/csds/csds_toc2010.php