Tác giả: Clarke W. Garret
Dịch giả: Ngô Bắc
Đế Quốc Pháp không còn nữa;
nhưng trong quảng đời sống của nó trong ba thế kỷ, nó đã hai lần đạt tới kích
thước và tầm quan trọng thứ nhì, chỉ thua một đế quốc khác trên thế giới. Trong
suốt quãng đời của Đế Quốc, nước Pháp được cai trị bởi hai triều đại quân chủ,
hai nhà độc tài dòng họ Bonaparte, và năm nền cộng hòa. Song trong lịch sử lâu
dài và biến đổi của nó, một chủ đề đã được lập lại nhiều lần: chủ đề “đồng hóa.”
Người Pháp chưa bao giờ hoàn toàn chắc chắn về ý nghĩa của nó. Nó khiến chúng
ta suy nghĩ về cả điều mà người Pháp gọi là sứ mệnh khai hóa của của họ
(mission civilisatrice) -- sự truyền bá văn hóa và tôn giáo Pháp tại những vùng
đất trên thế giới vì kém may mắn không phải là nước Pháp -- lẫn một sự tin tưởng
rằng mọi khu vực của thế giới trên đó có lá cờ Pháp tung bay phải là các bộ phận
của một quốc gia Pháp với một chính quyền và một khuôn khổ luật pháp duy nhất.
Khía cạnh tôn giáo và văn
hóa của chủ trương đồng hóa đã có một lịch sử tương đối liên tục. Sự phát biểu
rõ ràng đầu tiên của nó có thể tìm thấy trong các chỉ dụ năm 1635 và 1645 tuyên
bố rằng dân bản địa của những lãnh thổ dưới sự kiểm soát của Pháp, một khi đã được
cải sang đạo Công Giáo La Mã, sẽ được xem là “các công dân và người Pháp tự nhiên.(1)
Trong thực tế, Herbert Luethy, trong cuộc nghiên cứu sưu tầm của ông về quá khứ
và hiện tại nước Pháp có nhan đề France
Against Herself (Nước Pháp Chống Lại
Chính Mình), đã lập luận với nhiều sự hợp lý rằng ý niệm đồng hóa có thể được đẩy lùi ít nhất về thời Trung
Cổ, khi mà sắc dân Norman đặc biệt loan truyền văn hóa Pháp sang các nhiều khu
vực khác chẳng hạn như Anh Quốc, miền nam Ý Đại Lợi, và vùng Thánh Địa (Holy
Land). Trong suốt lịch sử nước Pháp, Luethy viết, đã có “một sự tin tưởng vô cùng
trầm tĩnh và ngây thơ nơi tính chất bất khả hủy diệt trong con người và tinh thần
của một dân tộc vốn không bao giờ nhắm tới một sự hợp nhất “chủng tộc”, mà đến sự hợp nhất
văn hóa có khả năng đồng hóa mọi thành phần của nền văn minh nhân loại.” (2) Và
bởi người Pháp đã có sự tự tín văn hóa này, sự đồng hóa là con đường hai chiều.
Đúng y như trong thời Trung Cổ, các triết gia kinh viện tại Đại Học Paris đã hỗn
hợp thành công các thành tố của tư tưởng Hy Lạp, Ả Rập và Do Thái với thần học
Thiên Chúa Giáo trung cổ, nhờ thế trong thời hiện đại các thành tố của văn hóa
Á Châu và Phi Châu đã thích nghi một cách thành công vào nghệ thuật và văn
chương Pháp.
Khía cạnh chính trị của sự
đồng hóa được phát biểu một cách rời rạc hơn. Sự biểu lộ rõ ràng nhất của nó được
tìm thấy trong những năm khởi đầu nhiều hy vọng của từng mỗi một nền cộng hòa
trong bốn nền cộng hoa đầu tiên. Thí dụ trong Hiến Pháp Năm Thứ III (1795), có
phát biểu rằng “các thuộc địa Pháp, tại mọi phần đất trên thế giới, tạo thành một
phần hợp nhất của cộng hòa Pháp, và tuân hành theo cùng các luật lệ hiến định”(3).
Cùng khái niệm này đã được phát biểu hai thế kỷ sau đó tại Hội Nghị Brazzaville
năm 1944 của Đế Quốc Tự Do Pháp, trong đó, ông Pleven, Ủy Viên phụ trách Các
Thuộc Địa của tướng de Gaulle, đã tuyên bố rằng “trong nước Pháp thuộc đia rộng
lớn hơn, không có các dân tộc để giải phóng hay sự kỳ thị chủng tộc để bãi bỏ …
Có những người dân mà chúng tôi có ý định hướng dẫn từng bước tiến đến nhân phẩm,
và những người dân trưởng thành nhất trong họ sẽ được cấp quyền tự đo chính trị,
nhưng họ không ước muốn một sự độc lập nào ngoài sự độc lập của nước Pháp.”(4) Ngay
lúc cả giấc mơ đồng hóa lẫn chính Đế Quốc Pháp đang sụp đổ, sử gia và cựu viên
chức thuộc địa Hubert Deschamps còn có thể viết về sự đồng hóa chính trị rằng “nó
phản ảnh tính khí của người Pháp, có tính cách phổ quát, và tập trung, trong tình
yêu mến sự vĩ đại của tổ quốc của mình … Nghị Viện hiện thời của chúng ta, với
thành phần bao gồm mọi chủng tộc và mọi màu da, xuất hiện như một sự toàn vẹn hợp
lý của chính sách thực dân Pháp; nó biểu lộ tính chất của một dân tộc mà, xuyên
qua nguồn gốc và sự cổ điển của nó, đã duy trì được ý nghĩa và khát vọng của sự
hợp nhất nhân loại.” (5).
Song bài viết này xác định
rằng ý niệm của Pháp về sự đồng hóa phần lớn là một huyền thoại. Nó đã là một
huyền thoại một phần vì về mặt lịch sử nước Pháp đã không thực hiện được đúng
theo lý tưởng đã tuyên bố của họ. Nó cũng là một huyền thoại theo một nghĩa
rông hơn của từ ngữ này. Chủ thuyết đồng hóa đã là một sự trình bày quá đơn giản
nhưng hãy còn giá trị về sứ mệnh mà người Pháp xuyên qua nhiều thế kỷ rao truyền
khắp thế giới và đem lại cho nó các phép lành của tôn giáo Pháp, văn hóa Pháp, và
(dưới bốn nền cộng hòa đầu tiên của nó) thông điệp về sự tự do, bình đẳng và
bác ái. Huyền thoại đồng hóa đã có một sự diễn đạt bi thảm thời hiện đại trong
số phận của Georges Bidault [Bộ Trưởng Ngoại Giao và đai diên nước Pháp trong hội
nghi về Đông Dương tại Geneva năm 1954, đã chia đôi Việt Nam khi đó, chú của
người dịch], một trong ít nhân vật xuất sắc hàng đầu lãnh đạo Đệ Tứ Cộng Hòa,
là kẻ đã trở thành một người lưu vong vô quốc gia hơn là tự hòa giải mình với sự
tan biến của giấc mơ đế quốc Pháp.
Kinh nghiệm Pháp tại Đông
Dương mang lại một sự tiêu biểu cho sự khác biệt giữa lý thuyết và sự thực hành
chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Sự quan tâm của Pháp tại
khu vực giờ đây [bài này được ấn hành trong năm 1967, chú của người dịch] bao gồm
Bắc và Nam Việt Nam, Cam Bốt và Lào có nhật kỳ khởi đầu hồi hậu bán thế kỷ thứ
mười bẩy. Các giáo sĩ ngưòi Pháp đã bắt đầu đến nơi đó hồi thập niên 1660, được
gửi sang bởi Hội Truyền Giáo Hải Ngoại mới được thành lập. Trong năm 1664, một
số công cuộc thương mại đã khởi sự trong vùng bởi Công Ty Đông Ấn của Pháp. Hội
truyền giáo và công ty mậu dịch đã hợp tác với nhau trong việc tìm cách thiết lập
ảnh hưởng của Pháp trong khu vực. Bởi vì cả các giáo sĩ Bồ Đào Nha và dòng Tên đều
được cấp các quyền truyền giáo từ trước tại Đông Dương, các giáo sĩ người Pháp
thường hoạt động tại đó với tư cách nhà mậu dịch bán thời gian cho Công Ty Đông
Ấn Độ. Sự quan tâm của chính phủ Pháp tại khu vực không bao giờ mạnh mẽ, và khi
sự tuyên xác thành lập đế quốc tại Ấn Độ và Gia Nã Đại đã kết thúc với Hòa Ước Paris
năm 1763, các hoạt động của Pháp tại Đông Dương, ngoại trừ của các giáo sĩ và một
số ít các kẻ phiêu lưu tư nhân, đều đã được đình chỉ. Các thượng thư của hoàng
gia phác họa các kế hoạch cho các cuộc viễn chinh của Pháp sang bờ biển Việt
Nam trong năm 1769 và sau này trong năm 1775, nhưng phần lớn bởi có sự lãnh đạm
và thiếu tiền tại triều đình, nên không dự án nào được tiến hành ra gì cả.
Cuộc phiêu lưu sau chót của
Pháp tại Đông Dương dưới Chế Độ Cũ [chỉ thời trước khi có cuộc Cách Mạng Pháp
năm 1789, chú của người dịch] xem ra phần nào có kết quả. Trong năm 1765, một
linh mục Pháp trẻ tuổi tên Pigneau de Behaine đã được phái sang Căm Bốt bởi Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại. Ông ta bị cưỡng bách rời khỏi Đông Dương bởi có sự chống
đối của người bản xứ và đã trú ngụ tại khu định cư riêng của người Pháp tại
Pondichery, miền nam Ấn Độ. Khi quay trở về Đông Dương mười năm sau đó, với tư
cách giám mục phụ trách toàn thể khu vực, ông nhận thấy hai miền An Nam (Đàng
Ngoài) và Cochin China (Đàng Trong) ở vào tình trạng nôi chiến; một cuộc nổi dậy
đã đánh đuổi gia tộc cầm quyền họ Nguyễn ra khỏi ngôi Chúa. Pigneau de Behaine đã
quyết định làm những gì ông có thể làm để tái lập vì hoàng đế bị lật đổ trở lại
ngai vàng, hy vọng rằng xuyên qua nhà vua này sẽ đưa đến sự thiết lập của cả
Thiên Chúa Giáo La Mã lẫn ảnh hưởng của Pháp tại vương quốc An Nam. Trong năm
1787 Pigneau đã cầm đầu một phái đoàn đển điện Versailles để tìm kiếm sự ủng hộ
của hoàng triều cho cuộc mạo hiểm của ông. Sau ba tháng tại triều đình, cuối
cùng ông có được một cuộc hội kiến với vua Louis XVI. Bài nói chuyện của ông với
nhà vua đã được tái tạo bởi nhà viết tiểu sử của ông qua các văn bản ghi chú còn
lại của hai vị thượng thư triều đình hiện diện khi đó. Sự đồng hóa không đóng
vai trò nào trong các lập luận của giám mục; thay vào đó ông đã tập trung vào tầm
quan trọng về thương mại và quân sự của Cochin China (Nam Kỳ) như một đối lực với
nước Anh. Một sự thiết lập tại Cochin China, theo lời ông, sẽ giúp cho nước
Pháp có thể khống chế các đại dương chung quanh Trung Hoa và sẽ biến nó trở thành
chủ nhân “của mọi hoạt động thương mại trong phần đất đó của thế giới.” (6)
Các lập luận của Pigneau có
vẻ như đã thuyết phục được triều đình. Khi một phái đoàn nhỏ giong buồm trở lại
Ấn Độ vào cuối năm đó, giám mục có mang theo mình một hiệp ước giữa Pháp và
Chúa Nguyễn, người đang tranh chấp ngôi vua, theo đó Pháp đồng ý cung cấp sự trợ
giúp quân sự đổi lại với sự kiểm soát của Pháp hải cảng Đà Nẵng cùng
3
sự bảo vệ và các đặc quyền
mậu dịch cho người Pháp. Sự chiến thắng của Pigneau chỉ là ảo tưởng, bởi nhà
vua Pháp, lúc bấy giờ đang tiến đến hồi khủng khoảng cuối cùng, hoặc đã không
có tiền hay sự quan tâm để chu toàn nghĩa vụ của nó theo bản thỏa thuận. Do đó,
vị thống đốc tại Pondichery đã có thể từ chối sự trợ giúp dành cho ông Pigneau.
Vị giám mục được biết đã nói rằng ông “có thể một mình làm cuộc cách mạng tại
Cochin China” (17) và, bác bỏ một đề nghị giúp đỡ của nước Anh, ông đã thu góp
tiền bạc từ một nhóm các thương nhân Pháp. Pigneau và một đội quân nhỏ bé gồm
các người tình nguyện Pháp đã đến Cochin China hồi cuối tháng Sáu năm 1789. Họ
đã huấn luyện đội quân của vị Chúa Nguyễn tranh ngôi theo các kỹ thuật quân sự
Pháp, họ đã xây dựng các thành lũy kiểu Pháp (một số thành vẫn còn sót lại), và
Pigneau đã trở thành cố vấn chính yếu cho Chúa Nguyễn.
Pigneau đã chết vì bịnh kiết
lỵ trong năm 1799. Chỉ còn bốn người Pháp tình nguyện ở lại với Nguyễn Ánh năm
1802 khi ông ta đặt Cochin China (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Đông Kinh (Bắc
Kỳ) dưới sự kiểm soát của mình và tự tuyên cáo trở thành hoàng đế Gia Long. Những
người Âu Châu được vinh danh bằng các chức vụ cao cấp trong chính phủ, nhưng ảnh
hưởng của Pháp tại triều đình đã tàn lụi dần dần. Chiến tranh tại Âu Châu đã ngăn
cản Napoléon khỏi việc thiết lập các quan hệ ngoạI giao và thương mại với vị
tân hoàng đế. Khi mà người Pháp sau hết tìm cách làm điều gì đó đề ký kết một
hiệp ước với đế quốc Việt Nam, khi đó là năm 1820, vua Gia Long vừa thăng hà và
được kế vị bởi con trai ông, vua Minh Mạng, một thanh niên chống đối mạnh mẽ việc
mở bất kỳ sự điều đình nào vớI Âu Châu hay dung chấp tôn giáo của họ. Chính vì
thế, các sự khai thác của Pigneau de Behaine và nhóm nhỏ các người Pháp tình
nguyện hầu như không đi đến đâu. Các giáo sĩ Pháp đã có nhiều thành công hơn;
trong năm 1800 đã có vào khoảng 310,000 tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã trong số
dân bản xứ Đông Dương, đa số trong họ là người Việt Nam.(8) Bấy giờ, vào năm
1820, là năm bắt đầu đối với họ một thời khoảng 65 năm ngược đãi dữ dội.
Trong khi đó, nước Pháp đã
trải qua các sự thay đổi vĩ đại. Cuộc đại Cách Mạng bắt đầu diễn ra ngay vào
lúc mà Pigneau giong buồm sang Pondichery. Vấn đề về một chính sách liên quan đến
các thuộc địa đã dẫn đến một sự tranh luận chua chát tại Quốc Hội trong năm
1789 và 1790. Một nhóm các dân biểu, hội viện của Hội Thân Hữu của Người Da
Đen, biện hộ cho một sự giải phóng tức thời và cấp quyền công dân cho các người
Da Đen tại vùng đảo phía Tây Ấn Độ (West Indian Negroes). Họ bị chống đối mạnh
mẽ bởi các nhóm có quyền lợi thuộc địa. Một sự thỏa hiệp về vấn đề thuộc địa và,
trong thực tế, về chủ trương đồng hóa được phác thảo trong năm 1790 trong một sắc
lệnh dành quyền tự quản hạn chế cho các thuộc địa và hứa hẹn rằng không có luật
lệ nào liên quan đến quy chế của các cá-nhân-không-tự-do lại sẽ được chấp nhận
trừ khi nó được đề nghị trước tiên bởi chính các quốc hội của các thuộc địa.
(9)
Vào năm 1794, chính sách của
họ đã bị đảo ngược. Trong suốt thời ngự trị của Đệ Nhất Cộng Hòa, chế độ đã xác
định chủ nghĩa phổ quát và sự bình đẳng cơ bản vốn là một di sản của Thời Kỳ
Giác Ngộ (Enlightenment). Hội Nghị Toàn Dân đã giải phóng nô lệ và tuyên bố rằng
“mọi cư dân tại các thuộc địa, không phân biệt màu da, đều là các công dân Pháp
và được hưởng mọi quyền được bảo đảm bởi Hiến Pháp.”(10) Trong các cuộc tranh luận liên quan đến
Hiến Pháp năm III hồi mùa hè 1795, một học thuyết về sự đồng hóa chính trị dựa
trên cùng các tiền đề của Thời Kỳ Giác Ngộ đã có nhiều sự phát biểu hơn nữa.
Trong một bài diễn văn dài ngày 4 tháng Tám, một dân biểu nổi tiếng, ông Boissy
d’Anglas, đã thúc dục rằng Hiến Pháp cần được trải rộng đến các thuộc địa.
“Cuộc Cách mạng mà quý ông đã
hoàn thành,” ông ta nói, “không phải chỉ dành cho Âu Châu; nó dành cho toàn thể
thế giới.” Các nguyên lý của Cách Mạng không thuộc quyền chuyên độc của một
nhóm nhỏ các dân tộc có các đặc ưu quyền; chúng là “tài sản của loài người.”
Ông Boissy đã nhắc nhở quốc hội về các lợi lộc kinh tế mà sự liên lập (interdependence)
mang lại cho cả thuộc địa lẫn mẫu quốc. Hơn nữa, sự thụ đắc các thuộc địa vừa
tăng cường sức mạnh quân sự của Pháp, vừa bảo vệ cho các dân bản xứ khỏi bị
chinh phục bởi “quân cướp.” Ông đã kết luận: “Hãy để các thuộc địa sẽ mãi mãi
là nước Pháp … hãy để chúng tạo thành một phần của nền cộng hòa bất khả phân
chia của chúng ta … Nhờ đó, quý ông sẽ mang lại cho những phần đất này của Đế
Quốc Pháp sự đoan chắc mà chúng chưa từng có, của việc được đồng hóa thực sự …
với các phần khác của chế độ cộng hòa.” (12) Cùng các tư tưởng về sự bình đẳng
và tính phổ quát và cũng như ý nghĩa về sứ mệnh đã là các đặc trưng cho sự phát
biểu trong ngôn từ của chính sách thuộc địa của các nền Cộng Hòa Thứ Nhì, Thứ
Ba, và Thứ Tư. Tuy nhiên, sự thực thi ở thuộc địa lại là một vấn đề khác. Sự giải
thích cục bộ cho sự kiện này nằm ở sự kiện rằng trong phần lớn thế kỷ thứ mười
chín, chính sách thuộc địa của Pháp đã được đánh dấu bởi một sự đảo ngược trở về
các phương thức trước năm 1789 với chính quyền riêng biệt cho các thuộc địa cùng
quy chế pháp lý và xã hội khác biệt giữa người Pháp và dân bản xứ. Đây là việc
xảy ra dưới hai thời Đế Chính Napoléon và dưới cả chế độ quân chủ của giòng họ
Bourbon lẫn Orleans. Đệ Nhị Cộng Hòa tuyên bố sự tái sáp nhập các thuộc địa vào
nước Pháp năm 1848, nhưng cộng hòa này chỉ tồn tại trong ba năm. Sự chia cắt ra
khỏi một đế quốc hầu như hoàn toàn là thành quả của các chế độ không phải là cộng
hòa. Ngay cả sau khi có sự thiết lập Đệ Tam Cộng Hòa năm 1870, đa số các người
xây dựng đế quốc là các quân nhân hay các giáo sĩ đều lãnh đạm hay thực sự thù
nghịch với kỷ nguyên cộng hòa trong đó lý tưởng của phe chủ trương đồng hóa Thời
Kỳ Giác Ngộ và Cách Mạng đã có một sự phát biều trọn vẹn nhất. Ngược lạI, các
nhân vật cộng hòa lương thiện trong thế kỷ thứ mười chín thường lãnh đạm hay thù
nghịch với đế quốc thuộc địa, một thành quả của phe Bảo Hoàng và Thiên Chúa
Giáo. (13)
Sự quan tâm của Pháp tại
Đông Dương trong thời kỳ giữa 1820 và 1860 thì lưỡng lự và không nhất quán trừ
một ngoại lệ: các giáo sĩ truyền đạo. Hội Truyền Giáo Hải Ngoại, bị giải tán
năm 1792, đã được tái thiết lập sau năm 1815. Một sự hồi sinh tôn giáo thực sự đã
thổi ngang nước Pháp, và một khía cạnh của sự phục sinh là việc tái tục hoạt động
truyền đạo tại Đông Dương và những nơi khác. Các nỗ lực của các giáo sĩ đã được
thừa nhận bởi Giáo Hoàng trong năm 1839 khi ông nhìn nhận vị thế hàng đầu của
Pháp trong các hoạt động truyền đạo tại Viễn Đông.
Tại Pháp, ảnh hưởng chính
trị của Thiên Chúa Giáo đã gia tăng một cách vững chắc dưới Chế Độ Quân Chủ
Orléans, Đệ Nhị Cộng Hòa, và Đệ Nhị Đế Chính. Họ ngày càng trở nên náo động về
các sự ngược đãi mà vua Minh Mạng và các vị vua kế ngôi gây ra cho các giáo sĩ người Pháp,
một số ít người trong họ đã bị hành quyết. Trong năm 1857, một Pigneau de
Behaine thứ nhì sau này đã được hiện thân nơi Đức Giám Mục Pellerin, một giáo
sĩ đã được cứu thoát khỏi Việt Nam trước đây bởi một sứ giả của Bộ Ngoại Giao
Pháp. Ông ta đã thúc dục hoàng đế Napoléon III hãy can thiệp bằng quân sự vào
Đông Dương. Ông đã vạch ra các lợi thế kinh tế và chính trị sẽ đến với nước Pháp
và đã trình bày với Hoàng Đế rằng sự sống còn của đạo Cơ Đốc tại Đông Dương
đang ở tình trạng nguy ngập. Hoàng Đế Napoléon đã tỏ vẻ quan tâm; thời điểm xem
ra đặc biệt thuận lợi bởi vì nước Anh đang dính líu đến Cuộc Nổi Loạn ở Ấn Độ
vào năm 1857 và do đó sẽ không đủ sức mạnh để ngăn cản việc dành một bàn đạp tại
Đông Nam Á của Pháp. Và điều này đã khêu gợi sự hấp dẫn đến nỗi một lực lượng hải
quân Pháp biệt phái, được tháp tùng bởi Giám Mục Pellerin, đã thực hiện một cuộc
đổ bộ tại vịnh Đà Nẵng (Tourane) nằm 1859 nhằm áp đặt các sự nhượng bộ từ phía
hoàng đế Việt nam, một người trẻ tuổi có tên là Tự Đức. Người Pháp đã phải rút
lui. Bịnh tật, sự vắng bóng hậu thuẫn của dân bản xứ mà Pellerin đã tiên đoán,
và các sự vướng mắc quân sự của Pháp tại Trung Hoa và Ý Đại Lợi trong năm 1859,
tất cả các điều đó đã đe dọa biến cuộc viễn chinh trở thành một vu đổ bộ ở Vịnh
Con Heo của thế kỷ mười chín [để chỉ cuộc đổ bộ thất bại của Hoa Kỳ lên Vịnh
Con Heo của Cuba hồi năm 1961, chú của người dịch]. Pellerin thúc dục hải quân
hãy tấn công Hà Nội tại miền Bắc, nơi giáo dân Thiên Chúa Giáo tương đối đông,
nhưng hải quân thay vào đó đã lựa chọn mục tiêu yếu kém hơn là Sàigòn tại miền
Cochin China ở phía Nam. Vào năm 1862 nước Pháp đã thành công trong việc bắt ép
vua Tự Đức phải ưng chịu theo các điều kiện của họ: sự chiếm hữu phân nửa miền
Cochin China của Pháp, một khoản bồi thường nặng nề, và một lời hứa rằng các
quyền lợi thương mại và tôn giáo của Pháp tại Việt Nam sẽ được tôn trọng.
Một chuỗi các biến cố theo
đó nước Pháp đã thụ đắc một đế quốc tại Đông Dương trong các thập kỷ sau năm
1862 thì quá hỗn độn để có thể mô tả chi tiết ở đây. Có điều cần phải được nhấn
mạnh như sau: nước Pháp nói chung chẳng bao lâu đã mất đi sự quan tâm đến Đông
Dương. Sự tạo lập của nó là kết quả của một số ít hạm đội hải quân, một số các
kẻ phiêu lưu, và một nhóm nhỏ các chính khách phe chủ trương chủ nghĩa đế quốc
tại Paris. Khái niệm về sự đồng hóa người Việt vào cộng đồng chính trị và văn
hóa của Pháp đã đóng một vai trò nhỏ bé trong động lực của các nhân vật này; và
số phận các giáo sĩ người Pháp cũng xảy ra như thế. Như ông Henri Brunschwig đã
vạch ra, có một sự rất mỉa mai trong sự kiện rằng nước Pháp đã sở đắc các căn cứ
cho các đế quốc ở Phi Châu và Á Châu trong thời khoảng giữa các năm 1820 đến
1860 khi mà công luận không còn quan tâm và công cuộc mậu dịch hải ngoại bị sút
giảm. Sự giải thích nằm nơi các áp lực thay đổi nhưng khẩn khoản của Thiên Chúa
Giáo, của các nhóm có quyền lợi vận tải hàng hải, và của các phát ngôn viên của
lục quân và hải quân. Trên cùng hết, đã có ước muốn của vua Charles X, Louis
Philippe, và Louis Napoléon “để khẳng định, trước mặt toàn thế giới, sự hiện diện,
sự vĩ đại, sự vinh quang của nước Pháp.” (14)
Vào năm 1873, hoàng đế Việt
Nam đã bị cưỡng ép phải nhường cho Pháp sự kiểm soát vùng Cochin China (Nam Kỳ).
Vấn đề chuyển hóa một sự chiếm đóng hải quân sang một chính quyền dân sự sẽ
phải được giải quyết. Bộ Trưởng Hải Quân đã thông báo lên Tổng Thống cộng hòa
Pháp rằng nếu sứ mệnh khai hóa (mission
civilisatrice) mà nước Pháp đảm nhận tại khu vực đó sẽ phải được hoàn
thành, nhất thiết sẽ phải có một chính quyền dân sự cần được huấn luyện về các
luật lệ, ngôn ngữ, và phong tục của cả Pháp lẫn Cochin China, những người có thể
thi hành “công tác đồng hóa” của hai nền văn hóa. (15) Công việc hành chính tại
Đông Dương chưa bao giờ chu toàn các sự kỳ vọng này. Chính phủ Pháp, với khuynh
hướng nghiêng về sự tập trung quyền hành và chế độ thư lại, đã tuyển dụng một số
lớn người Pháp, ngay cả trong các công việc bàn giấy tương đối thấp. Bởi vì lương
bổng và các điều kiện sinh sống tại Đông Dương nói chung đáng lo sợ, trước Thế
Chiến I, những người đi sang đó, tổng quát, có một số phận đáng thương. Cũng có
một số người sang Đông Dương nung nấu một sứ mệnh khai hóa, nhưng sự lãnh đạm của
chính phủ Pháp và của công luận đối với các vấn đề thuộc địa và sự vô khả năng
của chế độ thư lại thuộc đia đã sớm làm nản lòng họ. (16)
Một người trẻ tuổi tên Eliacin
Luro đã là một nhân vật ngoại lệ. Trong năm 1874, anh ta tổ chức một trường huấn
luyện bị yểu tử dành cho các nhà hành chánh tương lai tại Đông Dương. Trong giảng
khóa mà anh ta soạn thảo cho trường học, Luro đã đưa ra một sự phát biểu rõ
ràng và hấp dẫn về lý tưởng đồng hóa, được thích nghi để phù hợp với tình hình Đông
Dương. Quyền lực thực dân hóa, anh ta viết, phải tiến bước chậm rãi trong việc
thay đổi các phong tục, ngôn ngữ và các luật lệ bản xứ: “Điều cần thiết là phải
hiểu rõ, phải xâm nhập vào nền văn minh của người dân bị chinh phục, phải biết
về ngôn ngữ của họ … sau đó, tiến từng bước ngắn một, một cách kiên nhẫn … Sau
hết, đến mức độ mà sự trao đổi các ý tưởng giữa hai dân tộc được hoàn tất, tới
mức độ mà cuộc cách mạng kinh tế, phát sinh từ sự thỏa thuận tự nguyện, sẽ dần
dần đưa đến việc thay đổi các truyền thống, việc sửa đổi và thay thế các luật lệ
cần tiến hành một cách từ tốn.” (17) Bất kể các nỗ lực của Luro, chính phủ đã bỏ
rơi dự án của anh ta chỉ sau bốn năm thử nghiệm. Việc huấn luyện các hành chính
gia thuộc địa sau đó nói chung là không được đầy đủ. Chính phủ từ đó trở đi đã
hoạt động với sự giả định rằng sự huấn luyện chuyên môn là không cần thiết cho
nền công vụ tại thuộc địa.
Một sự chiến thắng có tính
cách hình thức cho nguyên tắc đồng hóa đã có được trong năm 1880, khi một thuộc
địa nhỏ của dân định cư gốc Pháp tại Cochin China đã thuyết phục được Paris hãy
để cho họ tuyển cử một dân biểu vào Viện Dân Biểu Pháp. Trong lời thỉnh cầu của
họ, các dân định cư đã hãnh diện loan báo rằng danh sách bàu cử của họ trong
năm đó có tổng số là 1,142 cử tri, nhiều hơn con số mà một vài thuộc địa khác sẵn
có sự đại diện tại Paris đã có thể khoe khoang. Trong tương lai, bản thỉnh cầu
nói tiếp, mọi người Pháp tại Cochin China phải có một tiếng nói mang danh dân
biểu; và sau đó, sau “một cuộc nghiên cứu
đặc biệt: une étude spéciale”, các người dân bản sứ có thế được gồm vào.
(18) Tiếng nói của sự đồng hóa có thể được nghe thấy, mặc dù khá yếu ớt.
Thiên Chúa Giao La Mã vẫn
tiếp tục là một con đường dẫn đến sự đồng hóa, mặc dù nơi đây cũng thế, thực tế
hãy còn xa vờI đối với giấc mơ mà Pigneau và các giáo sĩ thế kỷ thứ mười chín đã
mơ tưởng về một Đông Dương trong đó Chủ Nghĩa Thiên Chúa Giáo sẽ chiến thắng.
Giáo Hôi đã sống sót qua các sự ngược đãi; số dân Đông Dương trở thành tín đồ Thiên Chúa
được ước lượng vào khoảng một triệu người tính đến năm 1914. Nhưng sự chiến thắng
của người Pháp tại Đông Dương, được tiến hành một phần với danh nghĩa các nhà
truyền giáo, đã chỉ mang lại nhiều nhất một sự ban sủng hỗn hợp cho giáo hội. Mặc
dù cả các viên chức chính quyền lẫn các giáo sĩ đều đồng ý rằng dân bản xứ phải
được biến thành vừa là người Pháp về văn hóa, vừa là tín đồ Thiên Chúa về tôn
giáo, vấn đề giáo hội-nhà nước vốn là một vấn đề có tầm quan trọng tại Pháp
cũng lan tới Đông Dương như thế. Đã có sự hợp tác sơ sài và sự đụng chạm từng
lúc giữa nền thư lại cộng hòa và các giáo sĩ (thường nghiêng về phe bảo hoàng).
Hậu quả, chính quyền và Giáo HộI thường là các kẻ cạnh tranh trong các hoạt động
an sinh xã hội và giáo dục và đã phí phạm thời giờ và nỗ lực mà họ có thể sẽ tiết
giảm được nếu có sự hợp tác. Giáo Hội tiếp tục khuyến dụ dân bản xứ cải đạo,
nhưng một Đạo Phật chiết trung và lãnh đạm vẫn tiếp tục là tôn giáo của phần lớn
người Việt Nam. Đạo Thiên Chúa thì quá cứng rắn và quá xa lạ, và Giáo Hoàng từ
chối không cho phép các giáo sĩ thích nghi tôn giáo của họ với các tập tục của
dân bản xứ. Không còn các sự cải đạo toàn bộ các làng xã hay quận huyện sau khi
có sự chinh phục của Pháp, phần lớn là vì các phái bộ truyền giáo không còn là
nơi ẩn náu duy nhất tránh quân cướp và các tiểu vương độc tài hay là nơi duy nhất
có thể học hỏi các kỹ năng của Tây Phương.
(19)
Trở về Pháp, những người vốn
quan tâm đến chính sách thuộc địa vẫn tiếp tục tán thành sự đồng hóa, đặc biệt
là với sự chiến thắng của chế độ Cộng Hòa và phe chủ trương Cộng Hòa sau năm
1879. Điển hình cho nhóm tương đối nhỏ nhưng tận tụy này là Paul Gaffarel, một
giáo sư lịch sử tại Đại Học University de Dijon. Trong một tuyển tập các bài khảo
luận được ấn hành năm 1880, ông đã nói về sự vinh quang và các lợi lộc thương mại
mà Pháp đã nhận được từ sự thụ đắc vùng Cochin China, nhưng sự nhấn mạnh của
ông nhắm vào bổn phận của nước Pháp để hướng dẫn và giáo dục người dân bản xứ,
những người mà ông mô tả như là “các đứa cháu vừa mới được thu nhận vào nền văn
minh.” Ông viết tiếp: “Các người trợ lực hữu dụng nhất của chúng ta sẽ là các
giáo sĩ truyền đạo và các nhân viên dạy học.”Còn lực lượng nào có thể kháng cự
lại hai đòn bẩy của tôn giáo và khoa học? Chúng ta hãy học cách sử dụng họ và
chúng ta sẽ hoàn thành được một công tác hữu dụng và đầy lòng yêu nước.” (20)
Arthur Giraud, giáo sư luật học và tác giả một cuộc nghiên cứu được đọc một
cách sâu rộng về pháp chế thuộc địa, đã mô tả sự đồng hóa như là một “chính
sách hòa hợp yêu nước và lòng bác ái bao la” mà “tính ưu việt về tinh thần
không thể dị nghị được” sẽ được tìm thấy nơi “Nghị Viện độc nhất, bao gồm các
con người nói cùng một ngôn ngữ bất kể đến sự khác biệt về nguồn gốc của họ, đến
từ mọi phần đất của thế giới …đề thảo luận về các quyền lợi tổng quát của tố quốc
chung của họ” của nước Pháp. (21) Và tại Các Hôi Nghị Thuộc Địa được tổ chức tại
Paris trong các năm 1889-1890 liên kết với Hội Chợ Triển Lãm Paris (Paris
Exposition), một nghị quyết chung đã được chấp nhận bởi nhóm dân tộc có tuyên bố
rằng “tại tất cả các phần đất hải ngoại nằm dưới thẩm quyền nước Pháp, các nỗ lực
của chính sách thuộc địa sẽ phải truyền giao cho dân bản xứ ngôn ngữ, các phương
pháp làm việc, và, một cách cấp tiến, tinh thần và văn minh của Pháp.” (22)
Nếu người Pháp chưa bao giờ
tiến tới lý tưởng đồng hóa này trong thực tế, một trong những lý do là vì Đông
Dương không mấy thích hợp với lý tưởng đó. Người Việt Nam đã không phải là “các
đứa cháu nhỏ” không có văn minh, mà lại là một dân tộc quá văn minh nhưng đúng
là đang suy thoái, vốn sở đắc một hệ thống xã hội cực kỳ phức tạp, cùng vớI một
lịch sử và một nền văn hóa lâu đời hơn lịch sử và văn hóa của nước Pháp. Các kẻ
theo chủ nghĩa thực dân đã xem người Việt Nam là quỷ quyệt, xấu xa, và không có
sức sống mà họ tìm thấy nơi các dân tộc tại các thuộc địa Ấn Độ và Bắc Phi Châu
của họ. Tại vùng bình nguyên dọc bờ biển và các đồng bằng dọc các con sông nơi
có đông đảo dân chúng và chuyên chở nhiều tài nguyên phong phú nhất, mặt đất thì
phẳng và buồn bã, khí hậu thì oi bức và gây uể oải. Bởi vì người Pháp đã từ khước
hoặc phải thích ứng các thói quen sinh hoạt của họ với vùng nhiệt đới hay xây dựng
các căn cứ trên đồi núi như người Anh, ngay từ lúc khởi đầu đã có một số tổn thất
nhân mạng tăng cao và một sự luân chuyển mau lẹ các nhân viên. (23)
Một phần do kết quả của
kinh nghiệm tại Đông Dương và các nơi khác, một phần là vì các lý thuyết mới,
trong thập niên 1890, chính sách đồng hóa đã khởi sự được tái lượng giá. Các sự
chỉ trích thì mạnh mẽ và biến đổi. Các cuộc nghiên cứu của các nhà nhân chủng học
và xã hội học vạch cho thấy tính chất đa trạng của xã hội loài người. Các kẻ kỳ
thị chủng tộc và theo thuyết Darwin về xã hộI nói rằng cuộc sống như là một cuộc
tranh đấu trong đó các người Âu Châu ưu việt sẽ phải thống trị. Sự thành công ở
thuộc địa của người Hòa Lan và đặc biệt của người Anh đã dẫn dắt các người chỉ
trích đến việc đối chiếu các chính sách của các quốc gia này với các chính sách
của nước Pháp. Tại một trong các cuộc tấn công có nhiều hiệu quả hơn vào học
thuyết đồng hóa, Leopold de Saussure, một cựu sĩ quan hải quân vô danh, lý luận
rằng mưu toan để chuyển giao ngôn ngữ và các định chế của Pháp vào một khu vực
như Đông Dương là một việc vô ích; dân bản xứ không phải là người Pháp và sẽ
không bao giờ là người Pháp. Chủ trương đồng hóa là sản phẩm của thời Giác Ngộ
và một tín điều Cách mạng giả dối về sự hợp nhất nhân loại; và nó là một sai lầm
khổng lồ. (24)
Có lẽ kẻ chỉ trích dễ được nhận
diện nhất về chính sách đồng hóa là Jules Harmand, người, sau một chức nghiệp
xuất sắc trong vai trò một hành chính gia và nhà ngoại giao tại Đông Dương và Ấn
Độ, đã ấn hành một quyển sách nhan đề Domination
et Colonisation: Sự Đô Hộ và Chính
Sách Thuộc Địa Hóa trong năm 1910. Một thuộc địa,
ông viết, phải là một khu vực
ở đó có sự định cư đông đảo của người Âu Châu; chính vì thế, ở các khu vực như
Đông Dương trong đó thẩm quyền được áp đặt bởi một nhóm nhỏ người Âu Châu trên
một xã hội bản xứ chặt chẽ và khá lớn phải có một vài danh xưng nào khác: ông
ta mệnh danh có vùng đất đó là các lãnh địa đô hộ hay lãnh địa. Bởi vì họ tạo
thành tuyệt đại đa số trong dân số và do đó mang tính chất cốt yếu cho sự thịnh
vượng của nó, các người dân bản xứ đã là thành phần quan trọng trong sự thành
công của một vùng lãnh địa. Người Âu Châu phải hướng dẫn và bảo vệ họ, nhưng
các ý tưởng và các định chế của các xã hội bản xứ phải được giữ nguyên càng nhiều
càng tốt. Harmand tin tưởng rằng một khu vực thuộc quyền thống lãnh của Âu Châu
chẳng hạn như vùng Đông Dương phải có cùng loại tự trị về hành chánh và tài
chánh mà Ấn Độ đã có. Trong thực tế, ông viết, họ phải có các tình trạng khác
biệt trong mọi khía cạnh ngoại trừ sự độc lập về
chính trị. (25) Ông ta đã chấp nhận sự thụ tạo đế quốc bằng sức mạnh quân sự
như một sự cần thiết, nếu không phải là một điều miễn cưỡng, trong một thế giới
có các quốc gia cạnh tranh. Harmand còn bước xa hơn: bởi vì sự chinh phục trong
thực tế là vô đạo đức, kẻ chinh phục không bao giờ có thể kỳ vọng rằng dân bị
khuất phục lại chấp nhận kẻ chinh phục hay các ý tưởng của người đó, “Đây là sự
trừng phạt dành cho sự bạo động của người đó,” ông đã viết, vết máu dơ bẩn
không có gì tẩy rửa được ra khỏi bàn tay của người đó.” (26) Chính vì thế bất kỳ
lời nói nào về sự đồng hóa vào đất mẹ đều có tính cách lố bịch, và các giấc mơ
về sự tự do, bình đẳng và bác ái đều không thích hợp.
Harmand đề nghị một giải
pháp thay thế cho sự đồng hóa, điều mà ông gọi là sự liên kết (association). Từ
ngữ này thì ăn khách; trong thực tế nó trở thành bán chính thức. Nhưng theo ý
kiến của Harmand, sự liên kết có nghĩa rằng nước Pháp sẽ tự giới hạn mình vào
các công trình công chánh, giáo dục căn bản và kỹ thuật, cùng sự phát triển
kinh tế. Như Lugard đã từng làm tại Nigeria, chính quyền Âu Châu phải có tính
cách gián tiếp, với các định chế bản xứ được cổ võ và các phong tục bản xứ được
tôn trọng. Tuy nhiên, khi được áp dụng bởi chính phủ Pháp, sự liên kết sớm trở
nên rất khó phân biệt với sự đồng hóa. Sự khác biệt duy nhất có vẻ là giờ đây
chỉ có tầng lớp thượng lưu bản xứ là sẽ được Pháp hóa [trong nguyên bản là
Gallicised, để chỉ việc biến thành sắc dân Gaulois, tức người Pháp chính tông,
chú của người dịch]. Sự kiểm soát vẫn nằm trong tay các giới chức thẩm quyền tại
Paris, là những kẻ vẫn tiếp tục hành động như thể đế quốc là một bộ phận chính
trị, kinh tế và văn hóa của mẫu quốc Pháp vĩ đại. Hồn ma của Boissy d’Anglas hãy
còn động đậy.
Sự rỗng tuếch của niềm tin
của phe chủ trương đồng hóa khi được áp dụng tại Đông Dương còn có thể được biểu
lộ sâu xa hơn khi xem đến các bản văn của hai nhân vật chịu trách nhiệm trực tiếp
nhất cho sự thụ tạo của Pháp vùng Bắc Kỳ: Francis Garnier và Jules Ferry. Cả
hai người đều nói đến sứ mệnh khai hóa:
mission civilisatrice và về bổn phận của nước Pháp để mang các dân tộc bị
giam hãm trong bóng tối đến nền văn minh, nhưng cả hai chủ yếu quan tâm đến việc
thuyết phục đồng bào lãnh đạm của họ hãy chấp nhận nhu cầu cần lập một đế quốc
của Pháp. Có lẽ vì lý do này họ đã tập trung vào các lợi điểm kinh tế và ngoại
giao và, trên hết, vào chủ đề tâm đắc của de Gaulle[Tổng Thống Đệ Ngũ Cộng Hòa
Pháp, hồi thập niên 1960, chú của người dịch]: sự vinh quang của nước Pháp: la gloire de la France.
Garnier, hậu duệ của một
gia đình theo phe Bảo Hoàng không phục hồi được, đã theo học tại Học Viện Hải
Quân, nơi, vì kích thước nhỏ bé và các tư tưởng lớn lao của anh ta, các bạn đồng
lớp đã gọi anh ta là “Cô Bonaparte.” (28) [Bonaparte là họ của Nã Phá
Luân, Hoàng Đế nước Pháp,
cũng có tác người nhỏ bé, chú của người dịch]. Anh ta đã sang Nam Kỳ (Cochin
China) với tư cách một nhà hành chánh không lâu sau khi khu vực này được sáp nhập
vào năm 1862. Anh ta trở nên quan tâm đến việc thám hiểm dòng sông Cửu Long
(Mekong) chảy ngang qua phía bắc Sàigòn, nhằm tìm hiểu xem rằng liệu đường hải
hành của nó có thể giúp cho nước Pháp xâm nhập miền nam Trung Hoa trước khi người
Anh có thể mở rộng ảnh hưởng đến nơi đó từ Miến Điện hay không. Sau một cuộc
thám hiểm kỳ thú ngược dòng sông trong các năm 1866-1867, Garnier biết được rằng sông
Cửu Long không phải là một lộ trình thỏa đáng. Tuy nhiên, anh ta khám phá ra được
rằng con sông Hồng, đổ ra biển tại Hà Nội [?] trong vùng Bắc Việt, sẽ là một
con đường tuyệt hảo. Quả quyết muốn nhìn thấy nước Pháp sẽ được thiết lập tại
khu vực đó, anh ta và một nhóm nhỏ các thủy thủ đã mưu toan chiếm giữ thành phố
trong năm 1873. Garnier đã bị hạ sát trong một cuộc tấn công. Chính phủ Pháp,
hãy còn bị rúng động bởi thảm họa năm 1870 [Pháp bị thất trận trước Đức và phải
trả một khoản bồi thường chiến phí khổng lồ cho Đức, chú của người dịch] và hơn
nữa lo sợ sự can thiệp của Anh Quốc, đã từ chối không chịu hoàn tất dự án.
Phần lớn các ý tưởng của
Garnier được trình bày trong hai tập sách nhỏ mà anh ta đã viết trong các năm
1864-1865 và trong bản báo cáo nổi tiếng của anh ta về cuộc thám hiểm sông Cửu
Long. Anh ta bị ám ảnh bởi sự vĩ đại của nước Pháp và lấy làm kinh sợ về viễn ảnh
một thế giới bị thống trị bởi sắc dân Anglo Saxons (Anh Cát Lợi). Anh ta lập luận
rằng căn cứ của Pháp tại Nam Kỳ (Cochin China) phải là hạt nhân cho sự bành trướng
ảnh hưởng lên phương bắc. Các người dân bản xứ, anh ta quả quyết, sẽ đón nhận sự
kiểm soát của người Pháp nếu nó mang lại trật tự, sự vệ sinh và hoạt động thương
mại. (29) Anh ta nói một cách mơ hồ về trách nhiệm của nước Pháp trong việc khai
hóa khu vực, nhưng nhiệm vụ chính yếu của Garnier là nhằm vinh danh nước Pháp
(và chính anh ta) bằng việc cắt xẻ đế quốc ở Á Châu mà người Anh đã chiếm đoạt
từ tay người Pháp trong thế kỷ thứ mười tám. Đặc biệt là sau sự sỉ nhục của cuộc
chiến tranh Pháp-Phổ [tên gọi của nước Đức lúc bấy giờ, chú của người dịch],
Pháp phải tự mình chứng minh là một đại cường, và sự thụ đắc đế quốc là cách thức
tốt đẹp nhất để làm điều đó. (30)
Jules Ferry thường được trình
bày như một thí dụ cổ điển về một kẻ chủ trương đế quốc được thúc đẩy bởi động
lực kinh tế. Hiển nhiên đây là một xuyên tạc sự thực;
Ferry có vẻ đã có cùng một
sự nhiệt thành cho sự vinh quang và cho sứ
mệnh khai hóa y như các thành viên khác trong nhóm chủ trương thành lập đế
quốc. Không rõ điều gì đã dẫn dắt Ferry trở thành một kẻ chủ trương đế quốc.
Trước nhiệm kỳ Thủ Tướng lần thứ nhì của ông trong các năm 1883-1885, ông ta đã
quan tâm chính yếu đến nền giáo dục công lập, làm suy yếu quyền lực của Giáo Hội
Công Giáo La Mã tại Pháp, và tái lập các quan hệ hòa bình với nước Đức của Thủ
Tướng Bismarck. Và với tư cách một kẻ theo phe cộng hòa năm 1848 chân thành,
Ferry lấy làm ngờ hoặc về các cuộc phiêu lưu nhằm thành lập thuộc địa của phe bảo
hoàng và Thiên Chúa Giáo. Các bài diễn văn và các bài viết của ông cho thấy dần
dà, giữa các năm 1881 và 1883, Ferry trở nên tin tưởng rằng sự bành trướng thuộc
địa sẽ cung cấp cho người dân Pháp một cảm giác về sự vĩ đại và sứ mệnh, cảm
giác có thể giúp cho dân tộc bình phục từ cơn chấn thương năm 1870. (31) Chưa bao
giờ là một nhân vật có cảm tình của quần chúng, Ferry đã trở thành mục tiêu của
các cuộc tấn công từ cánh Hữu và cánh cực tả vì chính sách mở rộng đế quốc của
ông ta. Dù sao đi nữa, chính Chính Phủ của ông đã hiện thực được điều mà
Garnier và các người khác đã tìm kiếm: một đế quốc tại Đông Dương, bao gồm thuộc
địa Nam Kỳ (Cochin China), các vương quốc bảo hộ Lao và Căm Bốt, và giờ đây các
xứ bảo hộ tại Trung Kỳ (An Nam) và Bắc Kỳ (Đông Kinh).
Trong năm 1885, các chính
trị gia và báo chí đối lập đã thổi phồng một sự thất trận quân sự tại Bắc Việt
thành một thảm họa to lớn. Một chiến sĩ đảng Cấp Tiến kỳ cựu, ông Clémenceau, kẻ
trước đây có nói chính sách thuộc địa của Ferry làm nguy hại đến nền an ninh của
Pháp tại Âu Châu, giờ đây đã tố cáo ông ta về tội “phản quốc nghiêm trong.” Ở một
trong nhiều hoạt cảnh vô cùng ồn ào vốn là nét đặc trưng của quốc hôi Pháp,
Ferry bị bắt buốc phải từ chức, bị mất tín nhiệm đến nỗi không bao giờ ông ta
có thể trở lại để phục vụ như một bộ trưởng nữa. Tính tình lạnh lùng và kín
đáo, các chính sách đối nội, và thái độ “mềm dịu” của ông đối với Bismark {Thủ
Tướng Đức khi đó, chú của người dịch] đã góp phần vào sự sụp đổ của ông, nhưng
biến cố ở Bắc Kỳ đã là chất xúc tác. (32) Ferry đã rời chức vụ với sự hay biết
rằng hòa bình tại Bắc Việt đang gần kề và cùng với điều đó là sự thừa nhận của
Trung Hoa về quyền chủ tể của Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Trong một cuộc bỏ
phiếu rất khít khao, chính phủ mới đã thành công trong việc thuyết phục Quốc Hội
bỏ phiếu chấp thuận chi tiền cần thiết để sáp nhập Bắc Kỳ (Đông Kinh) vào một đế
quốc Đông Dươing. Dù có muốn hay không, nước Pháp đã có một đế quốc tại Á Châu.
Hầu hết mọi bài viết của
Ferry về chủ nghĩa đế quốc đã được viết sau khi đã có sự sáp nhập thành công
vùng Bắc Kỳ. Ông tập trung vào ba sự biện chứng cho sự bành trướng thuộc địa:
kinh tế, chính trị, và nhân đạo. Các lập luận về kinh tế xem ra đã xảy ra sau này
trong tư tưởng của ông và đã được dùng như các sự lý giải hậu thiên cho các sự kiện.
Ông ta biết rằng đế quốc Đông Dương mới có tiềm năng kinh tế lớn lao và hy vọng
gây sự chú ý cho một công luận người Pháp cho đến bấy giơ hãy còn thờ ơ đến việc
khai thác tiềm năng này. (33) Ferry đã tin rằng nước Pháp có một bổn phận để
truyền bá văn minh tại đế quốc mới của nó. Ông viết: “Dân tộc ưu việt không
chinh phục vì khoái lạc, nhằm khai thác chủng tộc yếu kém hơn, mà đúng hơn để
khai hóa nó và để nâng cao nó lên trình độ của chính dân tộc ưu việt.” (34)
Song trong tư tưởng của Ferry, sự vinh quang của nước Pháp đã là nguyên do
chính yếu cho sự bành trướng. Như ông có viết trong năm 1881 cho Leon Gambetta,
mục tiêu của chính sách đế quốc của họ phải là để tái lập “nước Pháp trở về hạng
một đại cường.” (35)
Một lời bình luận đáng chú
ý trên sự ước lượng của Ferry về công luận Pháp cho hay rằng, trong bài viết
quan trọng nhất của ông ta liên quan đến Đông Dương, ông đã tập trung hoàn toàn
vào các lập luận về kinh tế và chính trị, mà không đếm xỉa gì đến công tác nhân
đạo. Trong quyển Le Tonkin et la Mère-Patri
(Đông Kinh và Mẫu Quốc) (1890), một tuyển tập các tài liệu được đề tựa bởi
một bài giới thiệu dài của Ferry, ông đã viết rằng “một phong trào bất khả
kháng cự đã quét ngang các nước lớn ở Âu Châu dẫn đến sự chinh phục các vùng đất
mới. Nó giống như một cuộc chạy đua việt dã [băng qua đồng, chú của người dịch]
trên con đường dẫn đến nơi chưa biết.” (36) Trong cuộc chạy đua này, sự nhấn mạnh
phải nhắm vào kinh tế. Chính sách thuộc địa, trong cách đặt câu nổi tiếng của ông,
là đứa con gái của chính sách kỹ nghệ. Bởi vì Âu Châu đã “bão hòa”, các đại cường
phải mở rộng ra hải ngoại để tìm kiếm các thị trường mới. Đối với các kẻ giáo
điều và các nhà yêu nước chuyên nghiệp hay tuyên bố rằng nước Pháp phải tập
trung vào sự phòng vệ chống lại nước Đức ác độc, và những kẻ vẫn nói rằng nước
Pháp hãy còn yếu sau sự thất trận nhục nhã năm 1870, ông than vãn rằng: “Các ông nghi ngờ nước Pháp quá đáng!: Vous doutez trop de France!” Nước Pháp đã là một dân tộc vĩ đại, và một sự thử thách
tính chất vĩ đại chính là sự tham dự vào cuộc chạy đua dành đế quốc. (37) Nước
Pháp, ông kết luận, phải biết ơn các người theo phái thực dân, các nhà hành
chính, và các lãnh đạo quân sự, bất kể việc bị ngăn cản thường trực tại Paris,
đã tạo lập ra một đế quốc to lớn và có sinh lợI. Các người dân bản xứ thì “dễ
trị”, hòa hoãn, và siêng năng làm việc, và dưới sự chỉ đạo của các ngườI theo
phe thực dân, Đông Dương sẽ phát triển thịnh vượng. Tất cả những gì mà các kẻ
thực dân yêu cầu là sẽ được phép vay mượn tiền tại nước Pháp. Họ không muốn có
hay không cần đến sự kiểm soát được áp đặt lên họ từ Paris. (38) Không có một từ
nào trong 55 trang viết của Ferry có bất kỳ một sự tham chiếu đến sự đồng hóa
hay đến các lý tưởng quan hệ đến nó. Thuộc đia hiện hữu thuần túy vì các lý do
chính trị và kinh tế. “Sứ mệnh” không
được đếm xỉa tới.
Tình hình tại Đông Dương ra
sao vào lúc sắp xẩy ra Thế Chiến I? Theo Albert Sarraut, hai lần đảm nhận chức
toàn quyền trong khoảng giữa năm 1911 và 1919, nước Pháp đã cung cấp cho các
người dân bản xứ mọi ân sủng của nền văn minh Tây Phương. Trong một bài diễn
văn tại Hà Nội năm 1912, Sarraut đã bắt đầu như sau: “Tôi đã nhìn thấy những gì
nươ/c Pháp đã thực hiện tại Đông Dương, và tôi lấy làm hãnh diện về đất nước
chúng ta … Chúng ta đã đến nơi đây để đảm đương một sứ mệnh khai hóa vĩ đại; chúng ta đã giữ đúng đắn các lời hứa của
chúng ta. (39) Các viên chức người Pháp tại Đông Dương, ông Sarraut tiếp tục,
phải nói cho người dân bản xứ như sau: “Hãy so sánh hiện trạng của các người với
tình trạng trước khi có sự chiếu sáng của tâm hồn nước Pháp tại xứ sở của các
người.” Nước Pháp đã đem lại hòa bình và an ninh, các quyền tự do của công dân,
và nền công lý tây phương; nước Pháp đã xây dựng các hầm mỏ và các đồn điền,
làm đường xá, và đã cung ứng “các sản phẩm của sức lao động từ các dân tộc văn
minh vĩ đai.” Người dân bản xứ phải đốI chiếu “ngôi trường học sơn trắng mỉm cười
đón nhận con cháu của các người” với “sự ngu dốt khốn khổ” của họ trước đây. “Hãy
nhìn kỹ vào tất cả những điều này,” ông kết luận, “và hãy tự vấn rằng liệu sự bảo
vệ của nước Pháp có phải chỉ là một lời nói suông, rằng liệu có một dân tộc nào
khác trên thế giới lại có thể mang lại cho các người các sự thuận lợi như thế
hay không, và rằng liệu tự các người có khả năng … cung cấp cho chính mình một
tập hợp sự tiến bộ và các lợi ích này hay không.” (40)
Thực tế thì không lạc quan
nhu thế. Trong thực tế, Đông Dương đã được bình định vào khoảng 1914, nhưng chỉ
sau nhiều năm kháng cự của người dân bản xứ. Một số trường học được xây cất,
nhưng chưa đến mức gần đủ. Một giới thượng lưu Pháp hóa được sinh sản ra, nhưng
người Việt Nam đã phải đi đến chính nước Pháp mới học được các tư tưởng Cách Mạng
và những lý tưởng đã tạo thành phần lớn căn bản của ‘sứ mệnh” được giả định của
Pháp. Người Việt Nam do Pháp giáo dục có thái độ không mấy khác với người Ấn Độ
do Anh giáo dục hay người Nam Dương do Hòa Lan giáo dục. Nếu có điều gì xảy ra,
người đó có thể còn thù nghịch nhiều hơn với sự cai trị của Âu Châu bởi vì người
đó bị gạt ra ngoài phần lớn các công việc chính phủ tại Đông Dương, nơi mà một “giới
vô sản da trắng” lấp đầy ngay cả các chức vụ thấp kém vốn được dành cho người bản
xứ tại các đế quốc thuộc địa khác. (41)
Sau khi thụ tạo được Đông
Dương, nước Pháp xem ra không biết rõ những gì mà nó muốn làm với nó. Sự chinh
phục và công cuộc bình định Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã tốn kém rất nhiều so với trị
giá của nó như phần lớn người Pháp đã nghĩ, và do đó đã không có mức gần đủ về
các nguồn tiền công cộng và tư nhân được dùng cho sự phát triển chúng. Trong
năm 1913 chỉ có 24,000 người Âu Châu trên toàn cõi Đông Dương, và phần lớn các
người này hoặc là nhân viên hành chính hay quân sự. Chỉ có rất ít người trong
các người này đã từng xem Đông Dương như “quê hương.” Sự quan tâm của quần
chúng đến đế quốc mới chiếm được thì nhỏ nhoi và hời hợt khi so sánh với sự nồng
nhiệt rộng lớn về đế quốc tại nước Anh trong cùng thời kỳ. Tại Quốc Hội, chính
sách thuộc địa hiếm khi là một đề tài tranh luận và chưa bao giờ trở thành một
vấn đề trong cuộc tranh cử. Công chúng Pháp thì đơn giản là không để ý đến.
Jules Ferry, đến tham dự màn phụ diễn tại Hội Chợ Triển Lãm Paris năm 1898, được
tường thuật là đã nêu nhận xét với sự chán ghét: “Đó là tất cả những gì mà họ
hay biết về đế quốc – màn múa bụng.” (42)
Trong nhiều thập niên trước
năm 1914, các lý thuyết gia phe chủ trương thực dân người Pháp đã chuyển từ học
thuyết “đồng hóa” sang một học thuyết về sự “liên kết”, nhưng sự thay đổi này
không có một ảnh hưởng lâu dài trên chính sách của chính phủ. Đông Dương có một
sự thừa nhiệm mau lệ các viên toàn quyền, phần lớn là các nhân vật tầm thường
chỉ nhận lịnh từ Paris. Mục đích của họ mơ hồ về sự ghi khắc các giá trị của Pháp
và sự thiết lập các định chế của Pháp, nhưng trong phần lớn thời gian giới thư
lại Pháp chỉ lấy làm hài lòng về việc duy trì trật tự.
Trong các nhiệm kỳ của hai
viên toàn quyền năng động, Paul Doumer (1897-1902) và Albert Sarraut (1911-1914
và 1916-1919), đã có một số sự cải thiện. Các dự án công chánh đã được khởi sự
và nền y tế công cộng được cải thiện, nhưng cũng phải trả giá. Các sắc thuế
trên người dân bản xứ chiếm gọn một phần năm số thu nhập của họ; đặc biệt gây
khó chịu là thuế gián thu xuyên qua các thị trường độc quyền của chính phủ về
muối, thuốc phiện và rượu, cả ba sản phẩm mà người bản xứ bị bắt buộc phải mua.
Doumer đã cải thiện hiệu năng của chính phủ bằng cách trở thành một kẻ độc đoán
triệt để và bởi việc gia tăng tình trạng độc quyền của người Âu Châu trong mọi
chức vụ chính thức. Và các ngân sách của ông trong các năm 1899-1902 phát lộ
hai sự kiện gây bối rối; hơn một nửa số thu của chính phủ mỗi năm phát sinh từ
số thuế gián thu {thông thường số thuế trực thu như thuế lơi tực cá nhân và
công ty phản ảnh sự công băng thuế khóa hơn vì dựa trên số thu nhập va do đó khả
năng đóng thuế của từng cá nhân cụ thể, trong khi thuế gián thu như thuế tiêu
thụ bắt người nghèo tuy ít lợI tức hơn nhưng phải chịu cùng một khoản thuế như
người giàu, chú của người dịch] và phần chi tiêu để duy trì số nhân viên hành
chánh và quân sự cũng ngang bằng vớI số chi cho tất cả các công tác công chánh
cộng lại [chỉ ngân khoản đầu tư công trình chung ít, chú của người dịch]. (43)
Khi tổng kết về chính quyền
của chính mình, Doumer đã viết rằng Đông Dương đã được hưởng “trật tự hoàn hảo”
và rằng “cuộc bình định cụ thể, đạt được kể từ năm 1897, đã hoàn thiện cuộc
chinh phục tinh thần dân chúng.” (44) Doumer đã phát biểu quá sớm: trong năm
1908 một cuộc nổi dậy khác đã bùng nổ tại Bắc Việt. Chỉ với sự bổ nhiệm Sarraut trong năm 1911 mới
tìm thấy một viên toàn quyền khác có đủ uy tín và quyết tâm để điều khiển chính
sách thuộc địa của chính mình. Giống như Doumer, Sarraut đã mở rộng các công trình
công chánh, đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục và y tế. Sarraut đã tiếp tục
các nỗ lực của một vài vị tiền nhiệm không phải chỉ cắt giảm guồng máy thư lại
cồng kềnh mà còn thay thế phần lớn các thư ký người da trắng và các viên chức cấp
nhỏ bằng người bản xứ. Mặc dù sự bất ổn ở bản xứ hãy còn diễn ra từng chặp,
Sarraut là một viên toàn quyền được lòng dân, một kẻ tôn trọng các định chế của
Việt Nam hơn nhiều người khác và hơn nữa ít quan tâm đến việc đóng vai trò cảnh
binh. Trên bề mặt, Đông Dương ở vào một tình trạng tốt đẹp hồi năm 1914. Thịnh vượng
và tự túc, nó mang vẻ rằng ngay dù Sarraut có nói thái quá, Đông Dương sau rốt có
thể sẽ tiến đến một hoàn cảnh giống như sự mô tả của ông ta trong bài diễn văn
năm 1912.
Nó không bao giờ làm được
điều đó. Chính sách của Pháp tiếp tục không phô bày sự mạnh lạc hay liên tục.
Chiến tranh mang lại sự gia tăng thịnh vượng, nhưng nó cũng đưa đến sự cưỡng
bách trưng binh và các lời hứa không được giữ đúng. Ông Sarraut được kính trọng
quay về Pháp sau cuộc chiến để trở thành Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, nhưng ông
không bao giờ có khả năng thực hiện các sự cải cách mà ông đã hứa hẹn, chưa kể
đến việc thỏa mãn các đòi hỏi của tầng lớp người Việt theo chủ nghĩa dân tộc vừà
trổi lên. Các sắc thuế vẫn còn cao, thẩm quyền tối hậu vẫn nằm ở Paris, và
chính quyền thuộc địa đã thất bại trong việc bảo vệ người dân bản xứ chống lại
sự bóc lột của người Âu Châu. Một số rất ít người Việt Nam nhận đượ c quốc tịch
Pháp; tệ hơn nữa, chỉ với sự nghi ngờ nhẹ nhàng nhất về sự bất ổn họ sẽ bị từ
chối các quyền tự do dân sự và chính trị thông thường vốn được giả định là một
bộ phận của di sản nền tảng của
Pháp. (45)
Không thể phủ nhận rằng sự
chiếm đóng của Pháp là không có mang lại các lợi ích cụ thể cho Đông Dương và
dân chúng của nó. Khoa học và các ý tưởng Tây Phương có để lại một dấu ấn vĩnh
viến, nhưng với giá phải trả thì đắt. Người Pháp đã làm bật rễ nhiều cơ cấu xã
hội đặt nền trên làng xà và gia đình cổ truyền dưới danh nghĩa chủ nghĩa cá
nhân và tính hiện đại, nhưng hậu quả là một sự xáo trộn trầm trọng của xã hôi
và trong nền kinh tế đã mang đến nhiều sự đau khổ. Một số lương lớn các thanh
niên Việt Nam thuộc các tầng lớp bên trên có đồng hóa với văn hóa Pháp, nhưng bởi
không chỉ trong guồng máy hành chánh mà cả trong ngành tài chính và công nghiệp
đại đa số các công việc bàn giấy dành cho người Âu Châu, công ăn việc làm đã
không được cung ứng cho họ. Và bất kể các nỗ lực kiểm duyệt của các giới chức
thẩm quyền người Pháp, thế hệ mới đã học hỏi được hai khía cạnh của truyền thống
Tây Phương nguy hại cho lý tưởng đế quốc của người Pháp: chủ nghĩa dân tộc và
chủ nghĩa cộng sản Mác-xít. (46) Song bất kể đến sự thù nghịch của người bản xứ,
tình trạng vô hiệu quả của guồng máy hành chánh, và sự lãnh đạm của công chúng,
giấc mơ vẫn tồn tại: Đông Dương một ngày nào đó, theo một cách nào đó, sẽ trở
thành một bộ phận của nước Đại Pháp, nối kết với mẫu quốc bằng những mối ràng
buộc không thể phân ly được. (47)
Bị che mắt bởI sự kiêu hãnh
dân tộc và huyền thoại đồng hóa, người Pháp đã từ khước không nhìn nhận sự kiện
rằng Việt Nam đã sẵn có một nền văn minh. Bất kể sự tham nhũng, chính quyền vẫn vận
hành; bất kể không có sự tiến bộ, nhưng không có ai chết đói. Người Pháp đã
xuyên tạc hay phá hủy các định chế cổ truyền nhưng không mang lại cho người Việt
Nam giải pháp gì tốt đẹp hơn. Bất kể đến các nỗ lực trong ba trăm năm của các
giáo sĩ truyền đạo, đạo Thiên Chúa đã không được chấp nhận trừ ở một số ít khu
vực. Các chủ đồn điền người Pháp, các chủ cho vay tiền lấy lời cắt cổ người Ấn
Độ, và các thương gia người Trung Hoa đều đã giàu có lên, nhưng đối với đại đa
số quần chúng, sự cai trị của Pháp chỉ mang lại các sưu thuế, các khoản nợ, và
đôi khi sự chết đói. Trong sự biện hộ cho nước Pháp, hai yếu tố gây trở ngại
cho họ cần được nhắc tới: sự tiếp tục thờ ơ của dư luận Pháp đối với Đế Quốc và
một sự bùng nổ dân số làm gia tăng gấp đôi dân số của Đông Dưong.
Không thể không xem kinh
nghiệm của Pháp tại Đông Dương là một sự thất bại. Giáo sư Cady đã là một nhà
tiên tri tài giỏi trong năm 1954 khi ông viết rằng “điều có thể chứng minh sẽ là
một trong những thảm kịch của sự suy giảm ảnh hưởng của Tây Phương tại Á Châu là
việc Pháp đã không thể nhìn nhận khả tính của sự bình đẳng văn hóa và chính trị
với chính nó … mà lại không có vẻ phủ nhận không những chỉ vị thế của nó như một
cường quốc thế giới mà đến cả chính sự hợp lý về vai trò của nó trong các sự vụ
của thế giới.” (48) Sự đồng hóa được chứng minh là một huyền thoại đã che mắt người
Pháp không nhìn thấy các khiếm khuyết trong chính quyền thuộc địa của họ và tính
bất khả thực hiện của các mục tiêu đế quốc của họ. Thảm kịch ở chỗ chủ trương đồng
hóa, giống như mọi huyền thoại thực sự nào khác, tượng trưng cho điều gì cao cả:
các lý tưởng và các định chế của Chế Độ Cũ và nước Pháp Cách Mạng đã làm nó trở
nên thực sự vĩ đại. Nước Pháp đã thất bại trong việc tiếp truyền hạt giống của
chính nó ở hải ngoạI, nhưng đã phải mất hết tám năm chiến tranh tại Đông Dương
và sau đó tám năm chiến tranh tại Algeria trước khi nó nhận thức ra sự kiện./-
----
CHÚ THÍCH:
1. Được trích dẫn trong quyển
sách của Raymond F. Betts, Assimilation
and Association in French Colonial
Theory, 1890-1914 (New York, 1961), trang 12.
2. Herbert Luethy, France against Herself (New York, 1955), các trang 209-210.
3. Réimpression de l’ancien Moniteur, seule histoire authentique et
inalterée de la Révolution francaise depuis la reunion des États-généraux jusqu’au
Consulat (mai
1789-1799) avec des notes explicatives (Paris,
1843-45), XXV, 420.
4. Được trích dẫn trong Luethy, France against Herself, trang 218.
5. Hubert Deschamps, Les méthodes et les doctrines coloniales de
la France (Paris, 1953), các trang 213-214.
6. Được trích dần trong Alexis
Faure, Mgr. Pigneau de Behaine, eveque d’Adran
(Paris, 1891), trang 84.
7. Joseph Buttinger, The Smaller Dragon: A Political History of
Vietnam (New York, 1958), các trang 239-241.
16
8. Kenneth Latourette, Christianity in a Revolutionary Age: a
History of Christianity in the Nineteenth
and Twentieth Centuries (New York, 1958-62), III, các trang 423-424.
9. Betts, Assimilation and Association, trang 13.
10. Được trích dẫn trong Martin
Deming Lewis, “One Hundred Million
Frenchmen: the “Assimilation” Theory
in French Colonial Policy”, Comparative Studies in Society and History 4 (1962): các trang 129-153,
134.
11. Réimpression de l’ancien Moniteur , XXV, trang 415.
12. Cùng nơi dẫn trên, trang 419.
13. Betts, Assimilation and Association, các trang 14-18; Luethy, France against Herself, trang 213.
14. Henri Brunschwig, Mythes et réalités de l’imperialisme
colonial francais 1871-1914 (Paris, 1960), trang 16; cũng xem Gordon
Wright, France in Modern Times: 1760
to the Present (Chicago, 1960), trang 257.
15. Georges Taboulet. Ed., La Geste francaise en Indochine: Histoire
par les textes de la France en
Indochine des origines à 1914 (Paris, 1955), II, trang 585.
16. Denis W. Brogan, France under the Republic: the Development of Modern France
(1870-1939) (New York, 1940), trang 239.
17. Taboulet, La
Geste francaise, II, trang 600.
18. Cùng nơi dẫn
trên, trang 607.
19. Latourette, Christianity,
III, các trang 423-424; Virginia Thompson, French
Indochina (New York, 1942), các trang 272-274.
20. Được trích dẫn trong Agnes Murphy, The Ideology of France Imperialism 1871-1881
(Washington, 1948), các trang 204-205.
21. Được trích dẫn trong
Deschamps, Les methodes et les doctrines
coloniales, trang 144; cũng xem, Betts, Assimilation and Association, các
trang 27, 31-32.
22. Được trích dẫn trong Lewis, “One Hundred Million Frenchmen,” trang
143.
23. Đặc biệt, xem Thompson, French Indochina, các trang 429-450.
24. Deschamps, Les methodes et les doctrines coloniales,
các trang 146-147; Betts, Assimilation and Association, các trang 69-70.
25. Deschamps, Les methodes et les doctrines coloniales,
các trang 148-149; Betts, Assimilation and Association, các trang 52-54.
26. Được trích dẫn trong Betts, Assimilation and Association, trang 104.
27. Cùng nơi dẫn trên, tranmg
165-168; Lewis, “One Hundred Million
Frenchmen”, các trang 149-151.
28. Taboulet, La
Geste francaise, II, trang 542.
17
30. Cùng nơi dẫn trên, các
trang 544-545; Brunschwig, Mythes et
Réalités, các trang 24-
25.
31. Về các động lực của Ferry ủng
hộ chủ nghĩa đế quốc, xem Wright, France, các trang 309-310, 382-383; quyển tiểu
sử có tính cách tán tụng của Maurice Réclus, Jules Ferry, 1832-1893 (Paris, 1947), các trang 291-292, 296-298;
và Brunchswig, Mythes et Réalités, trang 55.
32. E. Malcolm Carroll, French Public Opinion and Foreign Affairs,
1870-1914 (New York, 1931), các trang 101-107.
33. Wright, France, trang 382;
Brunchswig, Mythes et Réalités, trang
61.
34. Được trích dẫn trong
Reclus, Jules Ferry, trang 304.
35. Được trích dẫn trong
Brunschwig, Mythes et Réalités, trang
55.
36. Jules Ferry, Le
Tonkin et la Mère-Patrie (Paris, 1890), trang 37.
37. Cùng nơi dẫn
trên, các trang 46-48.
38. Cùng nơi dẫn
trên, các trang 53-55.
39. Taboulet, La
Geste francaise, II, trang 916.
40. Cùng nơi dẫn trên, các trang 916-917. Sarraut dùng một đại danh từ suồng
sã tu, thích hợp để nói với các con chó, trẻ con, và các gia nhân.
41. Ellen Hammer, The Struggle for Indochina (Stanford,
1954), các trang 60, 73; Rupert Emerson, From
Empire to Nation: the Rise to Self-Assertion of Asian and African Peoples (Cambridge, Mass, 1960) trang
69.
42. Được trích dẫn trang
Wright, France, trang 383; cũng xem cùng nơi dẫn trên, trang 377; Brunschwig, Mythes et Réalités, các trang 139-141;
và Charles Robequain, The Economic Development of French Indo-China, thông
dịch bởi Isabel Ạ Ward (New York, 1944),
các trang 21-25.
43. Paul Doumer, Situation
de l’Indo-Chine (1897-1902) (Hanoi, 1902), các trang 3, 551-
554.
44. Cùng nơi dẫn
trên, trang 126.
45. Thompson, French Indochina,
các trang 89-91; Lê Thành Khôi, Le
Vietnam, histoire et civilisation (Paris,
1955), I, trang 401.
46. Brunschwig, Mythes et Réalités, các trang 187-188;
Hammer, Struggle for Indochina, các
trang 63-74.
47. Thí dụ, xem Robequain, The Economic Development of French
Indo-China, các trang 9-13; hay Deschamps, Les methodes et les doctrines coloniales, các trang 213-
214.
18
48. John Frank Cady, The Roots of French Imperialism in Eastern
Asia (Ithaca, 1954), các trang 295-296. Các sự lượng định tương tự về tình
trạng nghịch lý của chủ nghĩa đế quốc Pháp được trình bày bởi Luethy, France against Herself, trang 218 và
Betts,
Assimilation and
Association,
các trang 174-175.
---
Phụ Chú của người dịch: Về các ý niệm dân tộc, chủ nghĩa dân tộc,
quốc gia, quốc-dân, xứ sở: (*a) kèm sau chú thích số 46 của nguyên bản:
Theo các tác giả Jack C. Plano và Roy Olton,
trong quyển The International Relations
Dictionary, New York: Holt,
Rinehart and Winston, Inc., 1969, chủ nghĩa dân tộc (nationalism) được định
nghĩa như “ tinh thần ràng buộc, lệ thuộc vào nhau hay sự kết hợp nhằm duy trì
cá tính của một nhóm bởi việc định chế hóa nó dưới hình thức một quốc gia. Chủ
nghĩa dân tộc có thể được tăng cường bởi các mối dây nối kết về chủng tộc, ngôn
ngữ, lịch sử, và tôn giáo chung. Nó cũng thường được gắn liền với một lãnh thổ
riêng biêt…. Chủ nghĩa dân tộc được phát triển đầu tiên tại Tây Âu xuyên qua sự
củng cố các đơn vị phong kiến cá biệt thành các vương quốc. Tuy nhiên, cho mãi
tới Cuộc Cách Mạng Pháp và các cuốc chiến tranh của Nã Phá Luân, chủ nghĩa dân
tộc mới trở nên khả thức đối với người dân thường.” Trong phần giải thích ý
nghĩa, các tác giả trên đã viết như sau: “Chủ nghĩa dân tộc như một cảm xúc tập
thể là một lực chính trị mạnh mẽ nhất tạo hiệu quả tại thế giới. Nó khiến cho
dân tộc trở thành tiêu điểm tối hậu của lòng trung thành cá nhân. Lòng trung
thành này được thao tác và được duy trì sinh khí bởi sự vân dụng nhiều loại biểu
tương – các anh hùng dân tộc, … các lời thề trung thành với dân tộc, các ngày
quốc khánh … chủ nghĩa dân tộc có thể phát huy sự liên đới và một cảm thức về sự
tùy thuộc. Nó cũng có thể đưa đến sự thù hận, sự phân hóa, sự căng thẳng giữa
các nhóm hay chủ nghĩa dân tộc cạnh tranh nhau. Kể từ Thế Chiến II, chủ nghĩa
dân tộc … tạo ra sức năng động cho hàng triệu người dân lệ thuộc tại Á và Phi Châu
trong sự biến đổi của họ sang nền độc lập….”
Từ ngữ “nation: hay được dịch
sang Việt ngữ là dân tộc” được các tác giả trên định nghĩa như “một nhóm xã hội
chia sẻ một ý thức hệ chung, các định chế và phong tục chung và một cảm nghĩ về
sự đồng nhất. Một dân tộc có thể nằm trong một quốc gia, hay nằm kề cận một quốc
gia, hay trải quá các biên giới của một quốc gia duy nhất.… Ý niệm dân tộc nhấn
mạnh đến dân chúng … Trong cách nói thông thường, các từ “country: xứ sở, đất
nước”, “state: quốc gia” và “nation: dân tộc” thường hay được sử dụng một cách
đồng nghĩa, thế nhưng chúng không có nghĩa để chỉ cùng một sự kiện. Từ “xứ sở,
đất nước” có các ý nghĩa về địa dư, “quốc gia: state” để biểu lộ tố chức pháp
lý của xã hội, nhưng từ ngữ “dân tộc:nation” thì liên hệ đến một nhận thức văn
hóa-xã hội của nhóm người. Từ ngữ có gạch nối “state-nation: quốc dân, tức quốc
gia-dân tộc” mô tả một cách chính xác một nhóm người dân đồng nhất về mặt văn
hóa và xã hội sở đắc một sự tổ chức pháp lý để tham dự vào chính trị quốc tế.”
19
Karl Marx, vì muốn xóa bỏ “quốc
tịch: nationality” mà ông xem là một rào cản pháp lý sự tư do đi lại của công
nhân và hạn chế sự lưu thông của sức lao động, do đó đã khiến cho mác-xít trở
thành một chủ nghĩa quốc tế và phủ nhận chủ nghĩa dân tộc.
Ý niệm chủ nghĩa dân tộc này,
từ cái nhìn của chính trị học Tây Phương, đã thích nghi và phù hợp với công
pháp quốc tế cũng như tình hình chính trị thế giới sau Thế Chiến II, với nhiều
quốc gia độc lập mới được thành hình tại Á va Phi Châu cùng với phong trào giảI
phóng thực dân. Tác giả của bài viết được dịch ở trên, có lẽ không am hiểu lịch
sử Việt Nam nên đã không hiểu rằng thực sự ngườI Việt Nam đã có một ý thức về
chủ nghĩa dân tộc rất mạnh mẽ từ xa xưa, ít nhất là phải kể từ khi có bài thơ được
xem là của Lý Thường Kiệt, được đọc để khích lệ quân đội trong trận đánh chống
quân Tống ở sông Như Nguyệt n ăm 1077:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định mệnh tại
Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm!
Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư.
Bài thơ xúc tích, quyết liệt, đầy hào khí xác định rõ một xứ sở riêng biệt,
một chính quyền riêng biệt và cá tính của một tập hợp dân chúng riêng biệt này
phải được xem là bản tuyên ngôn về sự độc lập chính trị đầu tiên và đã thể hiện
trọn vẹn nhất chủ nghĩa dân tộc Việt Nam từ một nghìn năm trước./-
Nguồn: Clarke W. Garrett, The Myth of Assimilation – The French Theory of
Imperialism in Vietnam before 1914, Asian
Studies, 1, ed. by Balkrishna G. Gokhale, New York: Humanities Press, 1967,
các trang 56-76.
Ngô Bắc dịch và chú giải
© 2007 gio-o
Lời người dịch:
Dưới đây là bài dịch trong một loạt các bài viết về chủ đề Sứ Mệnh Khai Hóa của chính quyền Pháp thời thực dân , lần lượt được đăng tải trên gio-o:
1. Biện Hộ Cho Sứ Mệnh Khai Hóa tại Đông Dương, của Pierre Pasquier
2. Người Pháp tại Đông Dương: Một Vài Cảm Nghĩ của Các Thanh Tra Thuộc Địa, 1867-1913, của Reuben Garner
3. Phản Ứng Của Thực Dân Đối Với Dân Bản Xứ, của Virginia Thompson
4. Huyền Thoại Đồng Hóa: Lý Thuyết về Chủ Nghĩa Đế Quốc của Pháp tại Việt Nam trước năm 1914, của Clarke W. Garrett
Comments
Post a Comment